Đề xuất Ngày Gia đình Việt Nam là ngày nghỉ lễ

NDO -

NDĐT- Chính phủ thống nhất trình Quốc hội xem xét bổ sung một ngày nghỉ lễ là ngày 28-6 - Ngày Gia đình Việt Nam.

Đề xuất người lao động có thêm một ngày nghỉ lễ là Ngày Gia đình Việt Nam (Ảnh minh họa: Duy Linh).
Đề xuất người lao động có thêm một ngày nghỉ lễ là Ngày Gia đình Việt Nam (Ảnh minh họa: Duy Linh).

Ngày 6-11, thay mặt Chính phủ, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung đã ký văn bản về một số nội dung lớn và giải trình, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội đối với dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) gửi Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội tổng hợp báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Theo đó, Chính phủ có ý kiến về một số nội dung lớn còn ý kiến khác nhau như sau:

Mở rộng phạm vi điều chỉnh

Chính phủ đồng ý việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi).

Theo đó, Bộ luật Lao động (sửa đổi) áp dụng đối với tất cả người lao động có quan hệ lao động và mở rộng áp dụng một số quy định của Bộ luật đối với người không có quan hệ lao động ở cả khu vực chính thức và khu vực phi chính thức. Đây là nội dung đã được Ban soạn thảo tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7 (Báo cáo số 03/BC-BST ngày 13-8-2019 của Ban soạn thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội).

Quy định trần làm thêm giờ tối đa không quá 40 giờ/ tháng

Về mở rộng khung thỏa thuận thời giờ làm thêm tối đa (Điều 107), đối với nội dung này, Chính phủ đã có Tờ trình số 208/TTr-CP ngày 17-5-2019 về dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) đề xuất mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ tối đa thêm 100 giờ từ 300 giờ/năm lên 400 giờ năm. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có ý kiến tại Báo cáo số 466/BC-UBTVQH14 ngày 22-10-2019 tiếp thu, giải trình và chỉnh lý Bộ luật Lao động (sửa đổi).

Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Chính phủ đề nghị bổ sung quy định trần làm thêm giờ tối đa theo tháng là không quá 40 giờ. Đồng thời, quy định rõ trong luật các lĩnh vực, trường hợp đặc biệt được làm thêm đến 400 giờ/năm, bao gồm: dệt may, da giày, chế biến thủy sản, lắp ráp điện tử và trong những trường hợp phải giải quyết công việc cấp bách không thể trì hoãn theo quy định của Chính phủ.

Chính phủ đề nghị trình Quốc hội xem xét, quyết định.

Về tuổi nghỉ hưu

Chính phủ thống nhất với Báo cáo giải trình và phương án đề xuất của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Báo cáo số 466/BC-UBTVQH14, đồng thời đã chỉ đạo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội tiến hành rà soát bước đầu 1.810 nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm làm căn cứ để xác định nhóm người lao động được nghỉ hưu ở độ tuổi thấp hơn.

Giữ nguyên thời giờ làm việc bình thường

Theo quy định hiện hành, thời gian làm việc bình thường là 48 giờ/tuần. Trong luật cũng quy định khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện tuần làm việc 40 giờ.

Qua báo cáo đánh giá sơ bộ của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, hiện có 89,6% doanh nghiệp đang thực hiện tuần làm việc 48 giờ, 3,6% thực hiện 44 giờ, 6,8% thực hiện 40 giờ. Trong khu vực ASEAN, hầu hết các nước đều đang thực hiện tuần làm việc 48 giờ.

Về góc độ kinh tế, nếu giảm giờ làm việc bình thường từ 48 giờ xuống 44 giờ/tuần thì tổng thời gian giảm là 208 giờ/năm (tương đương 8,4%). Đánh giá sơ bộ cho thấy, tổng chi phí lao động tăng lên khoảng 17%, tổng giá trị xuất khẩu giảm đi khoảng 20 tỷ đô-la Mỹ mỗi năm. Điều quan trọng hơn là tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể giảm đi khoảng gần 0,5%, ảnh hưởng đến nỗ lực của chúng ta đang phấn đấu để không rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp. Theo dự báo của các chuyên gia, nếu muốn không rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp, Việt Nam phải phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 7%/năm.

Chính phủ cho rằng, đây là vấn đề rất lớn, hệ trọng, liên quan đến nhiều chủ thể, bao gồm người lao động, doanh nghiệp và Nhà nước và có tác động rất lớn đến năng suất, tăng trưởng, sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế, cần phải được nghiên cứu, đánh giá một cách rất kỹ lưỡng. Chính phủ chưa có báo cáo đánh giá tác động đầy đủ và chưa trình việc giảm thời giờ làm việc bình thường tại thời điểm này.

Do đó, Chính phủ thống nhất cao với tiếp thu, giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Báo cáo số 466/BC-UBTVQH14, trước mắt giữ nguyên thời giờ làm việc bình thường như quy định của Bộ luật hiện hành, đồng thời đề nghị bổ sung, quy định rõ trong luật,

Đó là: Khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện giảm giờ làm việc xuống dưới 48 giờ/tuần; Tăng cường cơ chế thương lượng tập thể về việc giảm giờ làm việc bình thường tại doanh nghiệp. Giao Chính phủ,căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội, có lộ trình điều chỉnh giảm giờ làm việc bình thường vào thời điểm thích hợp theo quy định tại Khoản 1 Điều 105 của dự thảo Bộ luật Lao động.

Đề xuất thêm một ngày nghỉ lễ là Ngày Gia đình Việt Nam

Chính phủ thống nhất trình Quốc hội xem xét bổ sung một ngày nghỉ lễ là ngày 28-6 - Ngày Gia đình Việt Nam.

Hiện tại, theo Bộ luật Lao động 2012, người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương khoảng 10 ngày trong năm vào các dịp: Tết Dương lịch, Tết Nguyên đán, Giỗ Tổ Hùng Vương, Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước 30-4, Ngày Quốc tế lao động 1-5, Ngày Quốc khánh 2-9.

Đối với các nội dung khác, Chính phủ giao Ban soạn thảo phối hợp với cơ quan chủ trì thẩm tra và các cơ quan liên quan khác nghiên cứu tiếp thu tối đa các ý kiến xác đáng của đại biểu Quốc hội về những nội dung: giải thích từ ngữ, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động, bảo vệ thai sản, bảo đảm việc làm cho lao động nữ nghỉ thai sản, lao động chưa thành niên, thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân...; đồng thời, phối hợp chỉnh sửa về mặt kỹ thuật để bảo đảm sự chặt chẽ, rõ ràng trong các quy định của Bộ luật, báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.

* Về tuổi nghỉ hưu, do còn có ý kiến khác nhau và đây là vấn đề có tác động lớn đối với người lao động và thị trường lao động, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội hai phương án quy định về tuổi nghỉ hưu tại khoản 2 Điều 169 để xem xét, cho ý kiến.

- Phương án 1 (Phương án Chính phủ trình quy định cụ thể lộ trình và tuổi):

“Điều 169. Tuổi nghỉ hưu

2. Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với nữ vào năm 2035. Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 03 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 04 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với lao động nam và 04 tháng đối với lao động nữ.

- Phương án 2 (Phương án quy định cụ thể tuổi nghỉ hưu của lao động nam và nữ nhưng giao Chính phủ quy định lộ trình):

“Điều 169. Tuổi nghỉ hưu

2. Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với nam và đủ 60 tuổi đối với nữ. Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021, căn cứ theo ngành nghề, tính chất công việc, môi trường và điều kiện lao động, địa bàn và cung, cầu của thị trường lao động, xu hướng già hóa dân số, Chính phủ quy định cụ thể lộ trình điều chỉnh tuổi nghỉ hưu của người lao động.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, cả hai phương án đều đạt mục tiêu cụ thể hóa quan điểm của Nghị quyết 28-NQ/TW quy định rõ tuổi nghỉ hưu phải hướng tới.

- Đối với Phương án 1: bảo đảm minh bạch, rõ ràng, tuân thủ quy định của Hiến pháp về quyền của “người làm công ăn lương”, đáp ứng được yêu cầu quy định cụ thể về lộ trình cho từng năm và xác định được thời điểm hoàn thành.

Tuy nhiên, việc áp dụng chung cùng một lộ trình với các nhóm đối tượng lao động rất khác nhau trong thị trường lao động rất đa dạng là chưa thực sự phù hợp với hoàn cảnh, trình độ phát triển của ngành và nghề lao động Việt Nam, sẽ có tác động khác nhau và có thể gây ra sự phức tạp, hệ lụy cần phải được cơ quan soạn thảo đánh giá kỹ lưỡng, cẩn trọng, nhất là trong bối cảnh chưa tạo được sự đồng thuận cao trong dư luận người lao động.

- Đối với Phương án 2: bảo đảm tính linh hoạt, không quy định một lộ trình chung cho tất cả các nhóm đối tượng lao động có đặc điểm ngành nghề, điều kiện, môi trường làm việc rất khác nhau... mà phải tùy vào từng nhóm lao động cụ thể để Chính phủ có thời gian khảo sát, đánh giá kỹ, có bước đi điều chỉnh nâng tuổi nghỉ hưu phù hợp.

Tuy nhiên, phương án này chưa xác định thời gian hoàn thành mà giao Chính phủ quy định, như vậy có thể sẽ dẫn đến phức tạp, khó khăn hơn khi thực hiện các quy định nghỉ hưu sớm hoặc kéo dài đối với các trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều này và người lao động không xác định được việc mình sẽ nghỉ hưu vào thời điểm nào.