Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới”

NDO -

Đúng 9 giờ sáng ngày 16-9-2020, Chương trình tọa đàm “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” diễn ra trực tuyến tại trụ sở Báo Nhân Dân, số 71 Hàng Trống, Hà Nội.

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới”

Khách mời tham dự buổi Tọa đàm gồm: 

- Đồng chí Phan Văn Chinh, Cục trưởng Cục XNK Bộ Công thương;
- Đồng chí Phạm Văn Duy, Phó Cục trưởng Cục chế biến và Phát triển thị trường, Bộ NN&PTNT;
- Đồng chí Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện chiến lược và Phát triển NNNT;
- Đồng chí Nguyễn Văn Lộc, Quyền TTK Hiệp hội mía đường;
- Ông Phạm Hồng Dương - Phó Chủ tịch Thường trực HĐQT TTC Sugar;  
- Ông Lê Văn Tam – Chủ tịch HĐQT Công ty CP mía đường Lam Sơn

Tham dự cuộc tọa đàm còn có ba nông dân ở Thanh Hóa: ông Đào Văn Đường xã Thọ Lâm, huyện Thọ Xuân, có diện tích 15 ha trồng mía; ông Lê Văn Thắng ở xã Ngọc Trung, huyện Ngọc Lặc, 10 ha; ông Hà Đình Thuần ở xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân có 12 ha trồng mía.

Qua 25 năm xây dựng và thực hiện chương trình “Một triệu tấn đường”, ngành mía đường Việt Nam đã nỗ lực vượt qua khó khăn, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo việc làm cho hơn 350 nghìn hộ nông dân, chủ động được nguồn đường sản xuất trong nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện xóa đói giảm nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, sau khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại và đặc biệt là hiệp định ATIGA (Hiệp định tự do trong khu vực ASEAN), trong đó mặt hàng đường được giảm thuế từ 80% (đường thô) xuống còn 5% trong nội khối ASEAN và đối với đường trắng từ 85% xuống còn 5% từ 1-1-2020.

Với việc chính phủ một số nước trong ASEAN trợ giá mặt hàng đường cho nông dân và doanh nghiệp sản xuất mía đường dẫn đến cuộc chơi không công bằng, cùng với những ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19, ngành mía đường của Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn.

Nhằm “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới”, Chính phủ đã ra Chỉ thị số 28/CT-TTg ngày 14 tháng 7 năm 2020 về việc triển khai các giải pháp phát triển ngành mía đường Việt Nam.

Vì vậy, Nhân Dân điện tử tổ chức chương trình tọa đàm trực tuyến với chủ đề “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới”, tạo diễn đàn để thu nhận các ý kiến đóng góp giúp ngành mía đường vượt qua khó khăn, phát triển bền vững trong tương lai.

Nhân Dân điện tử mong nhận được các ý kiến đóng góp từ bạn đọc tại địa chỉ: nhandandientutiengviet@gmail.com

 09:06

 Nhà báo Nguyễn Ngọc Thanh, Trưởng Ban Nhân Dân điện tử phát biểu khai mạc Tọa đàm

Phát biểu khai mạc buổi tọa đàm, Nhà báo Nguyễn Ngọc Thanh, Trưởng Ban Nhân Dân điện tử cho biết, qua 25 năm xây dựng và thực hiện chương trình “Một triệu tấn đường”, ngành mía đường Việt Nam đã nỗ lực vượt qua khó khăn, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo việc làm cho hơn 350 nghìn hộ nông dân, chủ động được nguồn đường sản xuất trong nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện xóa đói giảm nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. 

Tuy nhiên, từ ngày 1-1-2020, khi Việt Nam thực hiện cam kết theo các hiệp định thương mại và đặc biệt là hiệp định ATIGA (Hiệp định thương mại tự do trong khu vực ASEAN), trong đó mặt hàng đường được giảm thuế từ 80% (đường thô) xuống còn 5% trong nội khối ASEAN và đối với đường trắng từ 85% xuống còn 5% từ 1-1-2020. 

Bên cạnh đó, việc chính phủ một số nước trong ASEAN trợ giá cho ngành mía đường nội địa, dẫn đến cuộc chơi không công bằng trong cạnh tranh. Thêm vào đó, đại dịch Covid-19 như một cú đấm kép, khiến bà con nông dân và doanh nghiệp mía đường của chúng ta cực kỳ khó khăn. 

Nhiều nhà máy đường hiện đang lâm vào cảnh khó khăn, do không tiêu thụ được sản phẩm nên không có nguồn tiền để trang trải chi phí sản xuất, thanh toán tiền mía cho nông dân, cũng như chi trả tiền lương cho người lao động. Do tác động của dịch Covid-19 nên 1/3 nhà máy đường đã phải đóng cửa và nhiều DN khác đang đứng trước nguy cơ phá sản. 

Nhằm “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới”, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 28/CT-TTg ngày 14-7-2020 về việc triển khai các giải pháp phát triển ngành mía đường Việt Nam. 

Trong nhiều giải pháp cần sớm được triển khai trong thời gian tới để “cứu” ngành mía đường, tại Chỉ thị số 28/CT-TTg, Thủ tướng Chính phủ có nhấn mạnh đến việc giao Bộ Công thương chủ trì, phối hợp các cơ quan, đơn vị liên quan chủ động theo dõi, kịp thời đề xuất việc áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường nhập khẩu phù hợp các cam kết quốc tế. Đồng thời, hình thành cơ sở dữ liệu đồng bộ, chính xác về tình hình xuất khẩu, nhập khẩu, sản xuất trên cơ sở thông tin do các cơ quan chức năng cung cấp để sẵn sàng hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tư vấn, chuẩn bị hồ sơ phòng vệ thương mại…. 

Triển khai Chỉ thị số 28/CT-TTg, hôm nay, Báo Nhân Dân điện tử tổ chức chương trình tọa đàm trực tuyến và đã mời đến đây đại diện các cơ quan quản lý, chuyên gia và doanh nghiệp, nông dân trong ngành mía đường, tạo diễn đàn thu nhận các ý kiến đóng góp tâm huyết, cùng nhau trao đổi để đưa ra những giải pháp trợ giúp hiệu quả cho người nông dân và doanh nghiệp, bảo vệ ngành mía đường trong nước, hướng tới phát triển bền vững. 

Một lần nữa, thay mặt Ban Nhân Dân điện tử, xin cảm ơn các vị khách mời và các đồng nghiệp từ hơn 20 cơ quan báo chí đã tham gia buổi tọa đàm trực tuyến hôm nay. Chúc các quý vị mạnh khỏe, chúc buổi tọa đàm thành công tốt đẹp!

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

 09:10

 Nhà báo Trịnh Mai Anh: Ông có thể cho biết vị trí, vai trò, tầm quan trọng của cây mía trong nền nông nghiệp nói riêng và đời sống kinh tế - xã hội nói chung?

Ông Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược và Phát triển NNNT:

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

Trước hết có thể nói để phát triển được ngành đường như hiện nay là một cố gắng rất lớn của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương, doanh nghiệp, người nông dân và các Bộ, ngành… Đường là mặt hàng thiết yếu đối với nhân dân, trong những năm qua, ngành đường đã cung cấp đáp ứng đủ nhu cầu cho tiêu dùng trong nước. 

Có thể nói ngành mía đường vẫn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người nông dân; đặc biệt ngành mía đường đóng vai trò quan trọng trong xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế ở những vùng khó khăn. Hiện nay, ngành mía đường tạo việc làm cho hơn 30 vạn hộ nông dân, khoảng 1,5 triệu lao động và 35 vạn công nhân công nghiệp chế biến làm việc trong các nhà máy. 

Tiêu thụ đường trong nước khá lớn (trung bình 1,6 triệu tấn/năm) và hiện có nhiều vùng của Việt Nam có lợi thế trong việc trồng mía, nhiều nhà máy có công suất ổn định, công nghệ mới. 

Chúng ta thực hiện ATIGA chưa được một năm nhưng nhập khẩu chính ngạch tăng lên rất nhiều. 
Đây là một số nét về vai trò quan trọng của ngành mía đường. Chính vì thế không thể nói một cách dễ dàng là bỏ để nhập khẩu phụ thuộc vào nhập khẩu từ nước ngoài. Chưa nói ngay cả những vùng không có lợi thế thì cũng cần có những chính sách chuyển đổi từ từ, nếu không thì sẽ nhiều người dân trồng mía sẽ khó có thể chuyển đổi được sang cây trồng khác ngay. 

Ông Phạm Văn Duy, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ NN&PTNT:

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

Với năng suất mía bình quân khoảng 86-87 tấn/ha cũng có thể đem lại thu nhập cho người nông dân. Mía đường cũng có thể tham gia vào nhiều ngành công nghiệp khác nhau như sản xuất ván ép, chế phẩm sinh học, dung môi dược phẩm… có ý nghĩa rất lớn. Cho nên ngành mía đường có vai trò quan trọng trong kinh tế, xã hội. Trong báo cáo hằng tháng, hàng quý với Chính phủ, chúng tôi vẫn coi mía đường là ngành quan trọng. Chúng ta đã vượt qua rất nhiều khó khăn và đạt được thành tích nhiều hơn thế: tạo việc làm cho 30 vạn hộ nông dân, khoảng 1,5 triệu lao động. Đây là vị trí của ngành mía đường Việt Nam và điều đó khẳng định tại sao chúng ta phải có ngành mía đường.

 09:20

 Nhà báo Trịnh Mai Anh: Ông có thể khái quát về tình hình mua bán đường và các sản phẩm từ đường, và dự báo thị trường đường trên thế giới, đặc biệt là thị phần xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian gần đây? Xin ông cho biết lượng đường nhập khẩu 3 năm trước khi chúng ta ký hiệp định ATIGA và sau khi ký hiệp định cho đến nay?

Ông Phan Văn Chinh, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương:

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

Theo Tổ chức mía đường thế giới (ISO), thị trường đường thế giới và tình hình sản lượng vụ 2019-2020 cho thấy mức tiêu thụ đường toàn cầu trong niên vụ không bị thiếu hụt nhiều như các năm do nhu cầu tiêu thụ đường của toàn thế giới đã bị chững lại bởi tác động của dịch Covid-19, trong khi đó sản lượng sản xuất đường của Brazil tăng (nước sản xuất và xuất khẩu đường lớn nhất thế giới). 

Dự kiến, trong niên vụ mới (2020-2021), dự kiến mức thiếu hụt đường chỉ còn khoảng hơn 700 nghìn tấn, thấp hơn rất nhiều so với mức dự báo ban đầu. Đầu năm 2020, các chuyên gia dự báo mức thiếu hụt đươc sẽ lớn nhất trong 11 năm qua.

Việt Nam là một trong những sản xuất và tiêu thụ đường lớn trên thế giới và trong khối ASEAN. Về sản xuất, năng lực trung bình của Việt Nam sản xuất hằng năm trung bình từ 1-1,3 triệu tấn đường trong khi nhu cầu tiêu dùng trực tiếp sử dụng và sản xuất chế biến khoảng 2 triệu tấn/năm. 

Về sản lượng sản xuất, so với các nước trong khu vực châu Á và ASEAN, sản lượng sản xuất đường trung bình hàng năm của Việt Nam đứng thứ sáu sau các nước: Trung Quốc (10 triệu tấn), Thái Lan (8-9 triệu tấn), Australia (bốn triệu tấn), Indonesia (hai triệu tấn) và Philippines (hai triệu tấn).

Về tiêu thụ của các nước, riêng Trung Quốc (tiêu thụ 14 triệu tấn/năm) và Indonesia (7,5 triệu tấn/năm) luôn đứng đầu về lượng đường tiêu dùng nội địa, nguồn sản xuất trong nước không đáp ứng đủ và phải nhập khẩu sản lượng đường lớn từ các nước. 

Thái Lan và Australia là hai nước xuất khẩu đường lớn nhất trong khu vực, trung bình Thái Lan xuất khẩu khoảng năm triệu tấn đường mỗi năm. Việt Nam, Indonesia, Philippines là các nước nhập khẩu đường lớn từ Thái Lan. 

Ba năm trước khi Hiệp định ATIGA có hiệu lực (2017-2019) và bảy tháng năm 2020 khi Hiệp định ATIGA có hiệu lực, lượng đường nhập khẩu ba năm gồm: 

Theo thống kê của cơ quan Hải quan, giai đoạn 2017-2019 đường nhập khẩu vào Việt Nam đạt 200 nghìn tấn đến 400 nghìn tấn trong đó đường thô và đường tinh luyện (mã Hs 1701) nhập khẩu đạt gần 250.000 tấn/năm (năm 2018-2019); đường lỏng (mã Hs 1702) nhập khẩu trung bình đạt 150.000 tấn/năm (năm 2018-2019).  

Kể từ khi bỏ hạn ngạch thuế quan cho ASEAN, tổng lượng đường mía nhập khẩu vào Việt Nam đã tăng rất nhanh, trong bảy tháng đầu năm 2020, chúng ta nhập khẩu đạt gần 820.000 tấn, tăng gần bảy lần so với cùng kỳ năm 2019. 

 09:30

 Nhà báo Trịnh Mai Anh: Chúng tôi xin được hỏi ông Lê Văn Tam, Chủ tịch HĐQT Công ty CP mía đường Lam Sơn về thực trạng mà các doanh nghiệp mía, đường đang phải đối mặt khi Việt Nam ký Hiệp định ATIGA như thế nào?  Sau khi Việt Nam ký hiệp định ATIGA đã tác động thế nào đến ngành mía đường?

Ông Lê Văn Tam, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn:

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

Hiện tại, sản lượng đường thế giới dư thừa, Hiệp định ATIGA đã có nhiều tác động gây khó khăn cho ngành sản xuất mía đường trong nước.

Trong những năm gần đây, lượng đường thế giới dư thừa, giá đường thấp hơn giá thành, đường sản xuất ra không tiêu thụ được, tồn kho lớn, dòng tiền không được lưu thông, trong khi ngân hàng hạn chế định mức cho vay. Trong khi đó nhiều loại đường lỏng tràn vào không kiểm định chất lượng, không đánh thuế nhập vào Việt Nam; cùng với việc hiệp định ATIGA có hiệu lực, đường nhập lậu không được kiểm soát làm cho ngành mía đường trong nước nói chung và Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn khó khăn lại càng khó khăn hơn.

Giá đường thấp đã làm cho giá mía tụt giảm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến vùng nguyên liệu; thu nhập của người trồng mía tụt giảm, diện tích mía bị thu hẹp (chỉ còn lại 30% so với 5 năm trước đây), năng suất, chất lượng mía chưa được cải thiện, nhà máy không đủ nguyên liệu để sản xuất.

Theo tôi, các nguyên nhân chính yếu như sau: Đất trồng mía vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, phân tán, trong khi đó diện tích trồng mía chủ yếu là đất đồi; đây là nguyên nhân chính yếu gây rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng cánh đồng lớn, đưa cơ giới hóa vào sản xuất. Nên chi phí sản xuất tăng cao.

Lao động tại nông thôn đang thiếu hụt trầm trọng do lực lượng lao động (chủ yếu lao động trẻ là thanh niên) chuyển dịch sang làm việc tại các khu công nghiệp, đô thị; công thuê lao động thủ công tăng gấp 2 lần so với 5 năm trước đây, trong khi đó khâu đưa cơ giới hóa vào sản xuất mía vẫn còn nhiều vướng mắc, khó khăn (chủ yếu do đồng đất manh mún, nhỏ lẻ), nên giá thành sản xuất mía cao hơn các nước trong khu vực.

Hạn điền thuê thầu đất của địa phương cho các hộ nông dân quá ngắn (3-5 năm) nên nông dân không mạnh dạn đầu tư vào sản xuất (vì trồng mía phải thuê thầu đất lâu dài tối thiểu 10 năm thì mới thu hồi được vốn đầu tư). 

Đất trồng mía chủ yếu là đất đồi, hệ thống thủy lợi chưa được đầu tư. Do vậy diện tích mía chủ động được nước tưới còn rất ít (10-15% tổng diện tích), mía trồng vẫn chủ yếu phụ thuộc vào trời mưa nên ảnh hưởng lớn đến năng suất, chất lượng mía.

Thời tiết diễn biến hết sức phức tạp, hạn hán, mưa lụt, rét hại không theo quy luật, cũng đã ảnh hưởng rất lớn đến đến sinh trưởng, phát triển của mía; làm giảm nghiêm trọng về năng suất, chất lượng mía; gây thiệt hại lớn cho nông dân.

Ngoài ra, nạn nhập lậu vẫn hoành hành với biên giới Việt Nam quá rộng. Dù Chính phủ đã vào cuộc rất quyết liệt. Vậy nên, cần có thêm chính sách chống hàng nhập lậu và gian lận thương mại.

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
Hệ thống nhà máy Lasuco

 09:37

 Nhà báo Trịnh Mai Anh: Xin ông cho biết sự sụt giảm trong sản xuất của các doanh nghiệp đường trong nước sau khi Việt Nam ký hiệp định ATIGA? Nguyên nhân là gì? Ông có thể cho biết hiện nay người nông dân và doanh nghiệp đang phải đối diện với những khó khăn gì?

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

Ông Phạm Hồng Dương, Phó Chủ tịch Thường trực HĐQT TTC Sugar: Theo tôi, Nhà nước, các nhà máy cần có giải pháp để làm sao vực dậy ngành mía đường. Từ trước khi Hội nhập ATIGA, Việt Nam có 41 nhà máy mía đường phía bắc. Có khoảng 300.000 ha mía đường, 300.000 nông dân. Nhưng hiện nay, chỉ còn 30 nhà máy hoạt động, 11 nhà máy đóng cửa. Trong 30 nhà máy đó, chỉ có 13 nhà máy còn hoạt động xoay vòng vốn, 17 nhà máy đang thua lỗ. Nói về nông dân, hiện nay còn dưới 170.000 người. Vì vậy, sự sụt giảm về số lượng nông dân trồng mía rất lớn, và để lại hậu quả xã hội rất lớn. Nếu người nông dân không trồng mía thì chỉ trồng cây khác, nhưng theo tôi không phù hợp. Bởi, ở vùng sâu vùng xa, vùng biên giới chỉ có thể trồng cây mía, không có loại cây nào khác.

Vào những năm 2015-2016, cả Việt Nam có thể sản xuất 1,5 triệu đến 1,6 triệu tấn mía đường, nhưng hiện nay chỉ sản xuất được 700.000 tấn. Như vậy, đã có ý kiến về số liệu nhập khẩu, đến nay, chúng ta nhập khẩu khoảng 810.000 tấn đường, dự kiến, hết năm 2020, Việt Nam nhập khẩu 1,2 triệu tấn. Tổng cung cấp khoảng hai triệu tấn. Thị phần trong nước phụ thuộc vào người  nước ngoài, do đó, người nông dân đang ở thế khó, không biết nên trồng cây gì. Đó là điều bất hợp lý cho nông dân, nhà máy và doanh nghiệp.

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

 09:45

 Nhà báo Trịnh Mai Anh: Xin hỏi ông Trần Công Thắng, ông nhận định về những khó khăn mà người trồng mía đang gặp phải, đặc biệt về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, về giống, kỹ thuật và công nghệ..,?

Ông Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện chiến lược và Phát triển NNNT: 

Khi tham gia hội nhập bên cạnh một số ngành lợi thế thì cũng sẽ có một số ngành gặp khó khăn. Khi ra cuộc cạnh tranh này, đối với ngành mía đường của chúng ta, qua nghiên cứu khảo sát 16 nhà máy và vùng nguyên liệu vào năm 2018, thì thấy cũng có lợi thế nhất định. Một số vùng như Tây Ninh, các hộ nông dân có quy mô lớn có thể đạt năng suất 100 tấn/ha.

Khó khăn trước đây tạo gánh nặng cho chi phí như về lao động, thì vừa rồi một số nhà máy đã làm rất tốt việc cơ giới hóa.

Như vậy, một số vùng nguyên liệu của chúng ta không thua kém Thái Lan. Lợi thế nữa là chúng ta đa dạng hóa sản phẩm, trước đây chưa tận dụng nhiều nhưng hiện nay đã chú trọng.

Thứ ba, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư công nghệ. Và nếu chúng ta xây dựng hệ thống phân phối tốt thì vẫn tạo ra lợi thế trên sân nhà. 

Khó khăn thì có hai vấn đề liên quan đến khí hậu. Thứ nhất, hạn hán làm ảnh hưởng nhiều đến ngành này. Tỷ lệ người dân trồng mía có hệ thống thủy lợi không nhiều. Thứ hai là ngập mặn ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

Bên cạnh đó, câu chuyện khó khăn khác là quy mô sản xuất nhỏ lẻ trong khi giá mía giảm, giá đầu vào tăng… khiến người nông dân bị thiệt hại, rồi khó khăn về chính sách. Rõ ràng là cũng có rất nhiều khó khăn.  

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

 10:00

 Nhà báo Mai Anh: Ông có thể phân tích thêm về Hiệp định ATIGA mà Việt Nam đã ký có tác động như thế nào đến khả năng cạnh tranh của ngành mía đường của chúng ta? Các biện pháp phòng vệ có thể áp dụng là gì?

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

Ông Phan Văn Chinh, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương:

Để bảo vệ người dân trồng mía, trong tất cả các cuộc đàm phán quốc tế về mở cửa thị trường đường từ năm 1995 tới nay, bất kể là đàm phán gia nhập WTO hay đàm phán các FTA, kể cả các FTA thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA, Chính phủ đều dành sự quan tâm đặc biệt đối với ngành mía đường. 

Kể từ khi bắt đầu hội nhập kinh tế quốc tế vào năm 1995, ngoại trừ cam kết với ASEAN, thị trường đường nước ta về cơ bản là đóng cửa với bên ngoài, trong khi tất cả các ngành khác, kể cả những ngành cực kỳ nhạy cảm như chăn nuôi, rau quả, sắt thép, ô-tô…, đều đã mở cửa.

Hơn nữa, theo thỏa thuận của Việt Nam tại các hiệp định, các thành viên WTO và các đối tác FTA hằng năm chỉ được quyền bán vào Việt Nam một số lượng đường rất nhỏ (khoảng 5-6% tổng tiêu thụ của nước ta với mức thuế thấp. Đây chính là lượng hạn ngạch thuế quan (HNTQ) hằng năm.

Còn lại, nếu muốn nhập khẩu, doanh nghiệp phải trả thuế nhập khẩu rất cao (đường thô từ mía và củ cải với mức thuế suất 80%; đường tinh luyện với mức thuế suất là 85%, đường đã pha thêm hương liệu và chất màu với mức thuế suất là 100%), nên không thể nhập khẩu nếu ngoài HNTQ. 

Riêng với ASEAN, các nước đã quyết định xóa bỏ các biện pháp thuế quan và phi thuế quan (bao gồm cả HNTQ) cho hàng hóa của nhau từ năm 2005, tức  là cách đây 15 năm. Xét thấy ngành mía đường còn rất nhiều khó khăn, nên khi đó Việt Nam đã đạt được lộ trình cam kết dài nhất để bảo hộ ngành mía đường.

Theo lộ trình này, ta cam kết xóa bỏ HNTQ cho các nước ASEAN vào năm 2018, tức là sau 13 năm kể từ khi các nước ASEAN thống nhất xây dựng AEC. 

Mặc dù cam kết như vậy, nhưng trước những khó khăn của ngành mía đường, Bộ Công thương đã chủ động có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét tạm hoãn hai năm việc mở cửa thị trường đường cho các nước ASEAN theo ATIGA.

Kiến nghị này đã được Chính phủ chấp thuận tại Nghị quyết số 130/NQ-CP ngày 17-10-2018, theo đó, Việt Nam sẽ hoãn mở cửa thị trường đường cho các nước ASEAN tới năm 2020. Trong lịch sử hội nhập kinh tế quốc tế, đây là lần đầu tiên và duy nhất Việt Nam xin hoãn thực thi cam kết, qua đó thể hiện trách nhiệm và sự quan tâm cao của Chính phủ đối với người dân trồng mía và các nhà máy đường. 

Như vậy, tính từ năm 2005 (năm mà các nước ASEAN quyết định thiết lập AEC), ngành mía đường đã có tổng cộng 15 năm để chuẩn bị cho hội nhập và cạnh tranh trong khuôn khổ ASEAN, chủ yếu là với ngành mía đường của Thái Lan. 

Kể từ khi bỏ HNTQ trong ASEAN, tổng lượng đường mía nhập khẩu vào Việt Nam đã tăng rất nhanh, trong bảy tháng đầu năm 2020 đạt gần 820.000 tấn, tăng gần bảy lần so với cùng kỳ năm 2019.

Trong đó, lượng đường mía nhập khẩu từ Thái Lan vào Việt Nam chiếm tỷ lệ chủ yếu, chiếm gần 92% tổng lượng nhập khẩu vào Việt Nam. Lượng nhập khẩu từ Thái Lan đạt gần 750.000 tấn trong 7 tháng đầu năm 2020 (trong khi lượng nhập khẩu bảy tháng đầu năm 2019 chỉ là 104.000 tấn, cả năm 2019 là 300.000 tấn). 

Sản lượng đường của Việt Nam đều sụt giảm rất mạnh trong niên vụ năm 2019/2020, khoảng tới 800.000 tấn so với sản lượng 1,2 triệu tấn của niên vụ năm 2018/2019. 

Biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) hiện có thường theo ba hình thức, đó là: Tự vệ (áp dụng cùng lúc với nhiều nước, thậm chí là toàn cầu); Chống bán phá giá (CBPG); và chống trợ cấp (CTC) (chỉ áp dụng với nước bị điều tra).

Căn cứ đề nghị của ngành sản xuất trong nước và điều kiện cụ thể, các nước thường lựa chọn một trong hai phương án, hoặc là điều tra CBPG (có thể kết hợp cùng điều tra chống trợ cấp), hoặc điều tra chống trợ cấp. Do phương án tự vệ nếu không chứng minh được thiệt hại từ bên ngoài sẽ dẫn tới bồi thường cho các nước tham gia cùng hiệp định.

Hiện, ngành mía đường trong nước đã nộp hồ sơ yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp CBPG với sản phẩm đường lỏng làm từ ngô (HFCS) nhập khẩu vào Việt Nam.

Đối với việc này, Bộ Công thương đã xem xét, thẩm định theo quy định pháp luật và đã ban hành quyết định tiến hành điều tra. Hiện tại, cơ quan điều tra đang yêu cầu các bên liên quan cung cấp thông tin phục vụ cho quá trình điều tra.

Ngoài ra, đối với sản phẩm đường mía, ngành sản xuất trong nước cũng đã nộp hồ sơ yêu cầu điều tra CBPG và CTC đối với sản phẩm đường mía nhập khẩu từ Thái Lan. Bộ Công thương đang trong quá trình xem xét nội dung hồ sơ để ra quyết định về việc khởi xướng điều tra trong thời gian tới.

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

 10:08

 Nhà báo Trịnh Mai Anh: Thưa ông Nguyễn Văn Lộc, Quyền Tổng Thư ký Hiệp hội Mía đường Việt Nam, Hiệp hội đánh giá thế nào về thực trạng của ngành mía đường sau khi Việt Nam ký hiệp định ATIGA?

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

Ông Nguyễn Văn Lộc, Quyền Tổng Thư ký Hiệp hội Mía đường Việt Nam:

Về thực trạng của ngành mía đường sau khi Việt Nam ký hiệp định ATIGA thì ông Lê Văn Tam cũng đã chia sẻ, tôi xin thông tin thêm như sau.

Việt Nam bắt đầu thực hiện ATIGA, xóa bỏ hạn ngạch thuế quan đối với mặt hàng đường từ ngày 1-1-2020. Chúng ta khởi đầu vụ ép 2019-2020 trong hoàn cảnh đã bị thiệt hại trước đó rồi.

Trước đây chúng ta có 300.000 ha với khoảng 41 nhà máy thì chúng ta khởi đầu vụ ép 2019-2020 chỉ còn 1570.000 ha và 28 nhà máy hoạt động. Tuy nhiên trong vụ ép 2019-2020 cho đến thời điểm này thì nổi lên một số vấn đề lớn.

Như vụ sản xuất 2019-2020 ngành đường Việt Nam ép được khoảng 7.566.558 tấn mía và sản xuất được 763.931 tấn đường các loại. Tuy nhiên dịch Covid-19 đã có tác động lớn đến nhu cầu tiêu thụ đường, cộng với việc nhập khẩu đường và chất tạo ngọt với khối lượng lớn từ đầu năm đã tràn ngập thị trường khiến nguồn cung đường dư thừa trong bối cảnh thị trường bị thu hẹp dẫn đến giá đường trên thị trường duy trì ở mức thấp. Đường sản xuất từ mía hầu như không tiêu thụ được.

Và hiện trạng của ngành mía đường Việt Nam chúng ta thu hoạch vụ mía trước đó chịu ảnh hưởng của một đợt hạn rất nặng, cùng với Thái Lan. Đợt hạn này cùng lúc “đánh” khu vực miền nam và miền trung – Tây Nguyên ở Việt Nam cũng như Thái Lan. Đợt hạn này dẫn đến một hiện tượng rất lý thú khi chúng ta hội nhập ATIGA lần đầu tiên.

Trong năm nay thì năng suất mía của Việt Nam hơn Thái Lan. Tổng kết cho đến giờ phút này thì với khoảng 1,7 triệu ha, Thái Lan thu hoạch khoảng 44 tấn mía/1 ha, trong khi đó chúng ta sản xuất bình quân khoảng 53 tấn/1 ha. Điều này cho thấy, trong cùng một hoàn cảnh chịu khô hạn như nhau thì chúng ta vẫn duy trì được năng suất. Thái Lan bị sụt giảm từ dự kiến 10 triệu tấn đường xuống còn 7,45 triệu tấn. Chính phủ Thái Lan đến ngày 30-6 đã thống nhất tài trợ cho ngành đường Thái Lan 10 tỷ Bath, tương đương 317 triệu USD. Trong khi đó, ở Việt Nam thì tài trợ cho ngành mía đường tính đến thời điểm này là con số không. Trong hoàn cảnh đó, giá thành mía của Thái Lan được Bộ Công nghiệp của Thái Lan công bố là khoảng 1.419 Bath/1 tấn mía.

Như vậy, trong năm nay, chúng ta hội nhập, thực thi ATIGA trong bối cảnh chịu tác động của Covid-19 và các nước áp dụng các chính sách bảo hộ lớn cho ngành mía đường của họ. Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp mía đường Việt Nam đều thống nhất với chủ trương của Chính phủ thực thi cam kết ATIGA, xóa bỏ hạn ngạch thuế quan đối với mặt hàng đường từ ngày 1-1-2020.

Hiệp hội Mía đường Việt Nam tự tin rằng năng lực của ngành mía đường nếu được đưa về điều kiện ngang bằng với các nước sẽ đủ sức cạnh tranh. Nhưng cũng phải đề cập với hiện trạng “dòng thác” đường tràn vào như hiện nay, cộng với các yếu tố ảnh hưởng năng suất, thì ngành mía đường Việt Nam đang gặp khó khăn rất lớn.

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

 10:16

 Nhà báo Trịnh Mai Anh: Trong bối cảnh nền kinh tế chúng ta đã hội nhập sâu với thế giới, ông có thể đánh giá tiềm năng, năng lực, năng suất, công nghệ của ngành mía đường và lợi thế cũng như mặt hạn chế của chúng ta so với ngành mía đường của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới?

Ông Phạm Văn Duy, Phó Cục trưởng Cục chế biến và Phát triển TT Bộ NN&PTNT: 

Về tiềm năng, năng lực, năng suất, công nghệ so với thế giới và khu vực, như chúng ta đã biết, sản lượng đường Việt Nam sản xuất hàng năm đạt khoảng 1,3-1,5 triệu tấn, đứng thứ 11 thế giới (năm nước đứng đầu thế giới là: Brazil, Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan và Pakistan).

Năng suất và chất lượng mía nguyên liệu của ta còn thấp so với khu vực, mới chỉ đạt khoảng 67-68 tấn/ha so với bình quân thế giới là 70-72 tấn/ha. Như vậy chúng ta mới chỉ đạt khoảng hơn 90% trung bình thế giới. Về chữ đường mía bình quân đưa vào ép, chúng ta mới chỉ đạt dao động trên dưới 10,0-10,5 CCS, trong khi đó chữ đường ở các nước trong khu vực đạt từ 12 – 14 CCS. (Chữ đường CCS: Commercial Cane Sugar, là số đơn vị khối lượng đường saccaroza theo lý thuyết có thể sản xuất từ 100 đơn vị khối lượng mía).

Về năng lực, công nghệ, theo kinh nghiệm của ngành đường thế giới, thông thường một nhà máy phải có công suất từ 6.000 tấn mía/ngày (TMN) trở lên mới đạt được lợi thế về quy mô. Tuy nhiên hiện tại công suất ép bình quân của các nhà máy đường cả nước mới ở mức 3.700 tấn mía/ngày (TMN); chỉ có 8/30 nhà máy (năm 2019) có công suất ép lớn hơn 6.000 TMN.

Về mặt lợi thế, từ trước đến nay, ngành mía đường vẫn là một trong những ngành hàng được bảo hộ cao trong các chính sách phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc của Chính phủ. Cùng với đó, từ nhiều năm nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã và đang tích cực tham mưu chính sách và chỉ đạo từ Trung ương tới các địa phương triển khai tốt các khâu từ giống, tổ chức sản xuất và tiêu thụ mía nguyên liệu, chế biến phế phụ phẩm mía đường và đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận.

Chúng ta đã khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhập khẩu nhiều giống mía có năng suất cao, chữ đường tốt từ các quốc gia trong khu vực và trên thế giới như Thái Lan, Trung Quốc, Cuba, Pháp...  Hiện nay, chúng ta đang có khoảng 80 giống mía được đưa vào sản xuất cơ bản đáp ứng giống phù hợp các vùng sinh thái khác nhau trên cả nước; nhiều doanh nghiệp đã chủ động xây dựng được hệ thống giống mía ba cấp, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng mía nguyên liệu để hạ giá thành sản phẩm.

Ngoài ra, Bộ NN&PTNT cũng chỉ đạo các địa phương và doanh nghiệp mía đường chủ động xây dựng các dự án phát triển, triển khai một số mô hình sản xuất mía cánh đồng mẫu lớn với quy trình thâm canh cao, cơ giới hóa đồng bộ từ khâu làm đất, chăm sóc đến thu hoạch; áp dụng các giải pháp cơ giới hóa tiên tiến nhằm cải tạo đất, chống rửa trôi, giữ độ ẩm của đất, giảm tổn thất sau thu hoạch ....

Ngoài ra, để minh bạch việc định giá mua mía nguyên liệu theo chữ đường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Quy chuẩn quốc gia QCVN01-98:2012/BNNPTNT được người trồng mía và các doanh nghiệp thu mua úng hộ tích cực. 

Theo khảo sát của chúng tôi, tính đến năm 2018, tỷ lệ tái sử dụng phế phụ phẩm mía đường tại các cơ sở đạt hơn 70%. 

Về các mặt hạn chế hiện nay, mặc dù các nhà máy mía đường tăng đầu tư để đạt công suất tối ưu, nâng cao thu hồi, mức độ tự động hóa, cải thiện chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm, nhưng năng lực cạnh tranh của nhiều nhà máy, doanh nghiệp còn thấp (17/30 nhà máy đường đang hoạt động bị thua lỗ, một số nhà máy mất vốn chủ sở hữu)...

Thêm vào đó, giá mía thấp, năng suất không ổn định dẫn đến sản xuất mía có nhiều nguy cơ thua lỗ; nhiều nơi người dân đã chuyển đổi trồng mía bằng các cây trồng khác hoặc bỏ đất hoang làm diện tích trồng mía đang ngày càng giảm, nguy cơ thiếu nhiên liệu cho các nhà máy sản xuất đường, sản lượng đường sản xuất trong nước giảm. Giá đường trên thị trường giảm thấp, tiêu thụ đường trong nước gặp khó khăn, thua lỗ nhất là trong ba vụ gần đây.

 10:20

 Nhà báo Trịnh Mai Anh: Ông Phạm Hồng Dương có thể cho biết tầm nhìn của doanh nghiệp mình như thế nào? Doanh nghiệp đã đầu tư như thế nào để thực hiện tầm nhìn của mình?

Ông Phạm Hồng Dương - Phó Chủ tịch Thường trực HĐQT TTC Sugar:

Với TTC Sugar, chúng tôi nhìn cây mía không đơn thuần sản xuất đường, mà chọn chuỗi giá trị của cây mía, bao gồm các giải pháp từ việc bắt đầu trồng mía, làm ra đường, phân phối, sử dụng cung cấp sản phẩm sau đường. Cũng như nghiên cứu sâu hơn về chuỗi giá trị mía đường.

Đối với hoạt động nông nghiệp, chúng tôi hướng đến chuyển đổi mô hình canh tác nông nghiệp truyền thống sang canh tác hướng hữu cơ, để phát triển vào các sản phẩm organic, cũng như đầu tư vào R&D chúng tôi có trung tâm nghiên cứu mía đường để cung cấp giống cũng như giải pháp về đường tổng hợp, phòng trừ hiệu quả sinh học, đưa cơ giới hóa vào trồng cây ở Việt Nam.

Về chuyển mình trở thành nhà thương mại, xuất nhập khẩu quốc tế, vào tháng 4-2020, chúng tôi đã thành công xuất khẩu đường vào thị trường Trung Quốc.

Sự tài vận, bảo hộ từ hiệp định của WTO, làm cho cạnh tranh không lành mạnh, vì vậy, Việt Nam không cạnh tranh được với các nước, mặc dù công nghệ cải tiến tốt. Do vậy, Nhà nước cần có  chính sách để hạn chế hoặc loại bỏ sự không công bằng đó.

Ngoài ra, chúng tôi cũng tìm hướng khai thác khác như: Đầu tư vào sản phẩm dược từ bã mía, tiến hành sản phẩm có quy mô công suất tốt hơn để mang lại hiệu quả cao hơn. Từ đó, nếu doanh thu, lợi nhuận sau đường thì có thể tài trợ cho bà con nông dân để cùng nhau đi lên.

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

 10:25

 Nhà báo Mai Anh: Nhiều chuyên gia có đưa ra ý kiến, chúng ta có thể hạn chế nhập đường tinh (chỉ nhập đường tinh khi trong nước không đủ năng lực sản xuất) và khuyến khích nhập đường thô, ông đánh giá ý kiến này như thế nào? Có thể thực hiện được hay không?

Ông Phan Văn Chinh, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương:

Đây là ý kiến được nhiều chuyên gia đặt ra tại một vài cuộc hội thảo. Chúng tôi cũng đã thảo luận nhiều về vấn đề này.

Về vấn đề hạn chế nhập khẩu đường tinh và khuyến khích nhập khẩu đường thô, về mặt bản chất vẫn là nhập khẩu đường. Trong khi đó, chính sách của Chính phủ chúng ta quan tâm đến 35 vạn hộ nông dân trồng mía.

Chúng ta vẫn phải nhập khẩu đường. Vấn đề làm sao hiện nay chúng ta phải giải quyết khâu "gốc rễ" là quyền lợi của người nông dân.

Về hạn chế nhập khẩu đường, theo cam kết của chúng ta có điểm chưa hoàn toàn phù hợp.

Thứ nhất, trong nước vẫn tiêu thụ đường tinh luyện, sản xuất đường tinh, tiêu thụ vẫn có nhu cầu nên ảnh hưởng đến nguyên tắc đối xử quốc gia trong vấn đề này.

Hiện nay, về vấn đề này, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo có biện pháp quản lý phù hợp với thông lệ và cam kết quốc tế.

Tôi đồng ý là chúng ta phải hội nhập, nhưng làm thế nào để bảo hộ ngành mía đường một cách hợp pháp, hợp lý. Về khía cạnh này, tôi nghĩ, đây là một ý kiến nhưng chúng ta có nhiều cách giải quyết từ sản xuất trong nước đến hỗ trợ ngành đường, nâng cao khả năng "đề kháng của cơ thể". Đồng thời, bảo vệ ngành sản xuất trong nước bằng công cụ được phép.

Sau khi Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị 28, ngày 4-8-2020, Bộ trưởng Công thương đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-BCT về việc tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu mặt hàng đường.

Theo đó, Bộ trưởng Công thương yêu cầu các đơn vị thuộc Bộ tập trung triển khai một số các nội dung sau:

Theo dõi, đề xuất việc áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại phù hợp với các cam kết quốc tế đối với mặt hàng đường nhập khẩu;

Thống kê tình hình sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu trên cơ sở thông tin do các cơ quan chức năng cung cấp để sẵn sàng hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tư vấn, chuẩn bị hồ sơ phòng vệ thương mại đối với mặt hàng đường;

Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hiệp hội Mía đường Việt Nam nghiên cứu, đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động nhập khẩu mặt hàng đường trong tình hình mới.

Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm tra, ngăn chặn, xử lý nghiêm các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại và các hành vi tiếp tay buôn lậu đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh mặt hàng đường và chất tạo ngọt.

Hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng đường và các sản phẩm từ đường tìm kiếm thị trường xuất khẩu, đẩy mạnh tiêu thụ mặt hàng đường; đặc biệt là các thị trường đã có Hiệp định thương mại tự do.   

Trong đó, nội dung phối hợp với các hiệp hội ngành hàng nghiên cứu xem xét áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Đây là biện pháp chúng tôi rất mong muốn và khi chúng ta sử dụng biện pháp này hoàn toàn phù hợp.  

Hiện nay trợ cấp gây nên phá giá. Hiện, hiệp hội đang phối hợp tích cực với Bộ Công thương để tìm ra khoản trợ cấp, nội dung trợ cấp của Chính phủ, các nước xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam để có điều tra phù hợp.

 10:28

Nhà báo Trịnh Mai Anh: Ở góc độ doanh nghiệp, ông có kiến nghị gì về chính sách đối với Nhà nước và địa phương để hỗ trợ mối quan hệ người trồng mía và doanh nghiệp?

Ông Phạm Hồng Dương, Phó Chủ tịch Thường trực HĐQT TTC:

Theo tôi giải pháp có thể thực hiện để cứu ngành đường, là làm cách nào dùng các biện pháp phòng vệ chính đáng, phù hợp thông lệ quốc tế để ngăn chặn dòng đường trắng giá rẻ đang vào Việt Nam, mà dự kiến trong năm nay là 1,2 triệu tấn, năm sau có thể lên tới 1,6 triệu tấn. Đó là giải pháp đầu tiên mà các bộ, ngành cũng như các doanh nghiệp và Hiệp hội Mía đường Việt Nam cần cùng nhau nghiên cứu.

Song song với đó là các giải pháp căn cơ và cần những giải pháp "dài hơi" hơn. Thí dụ như tìm cách giảm lãi hoặc miễn lãi suất vốn vay đầu tư cho nông dân; đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.  Điều này đặc biệt phù hợp với thông lệ quốc tế. 

Thứ hai là đầu tư cho cơ giới hóa. Chúng ta cần có những chính sách giảm thuế nhập khẩu cũng như thuế VAT để đầu tư thâm canh tăng năng suất cho cây mía. Thứ ba là đầu tư cho nghiên cứu để các nhà máy phát triển công nghệ. Thí dụ như Thái Lan, nếu đầu tư phát triển công nghệ thì họ miễn 100% thuế thu nhập doanh nghiệp. Nếu dùng công nghệ ở trong nước, thì được giảm 200% thuế thu nhập doanh nghiệp. Còn nếu đầu tư công nghệ mới thì giảm tới 300%. Đó là những điều họ đã làm và làm rất cụ thể và đúng thông lệ. Nếu mình làm được như vậy thì chắc chắn ngành mía đường sẽ phát triển rất tốt, để nghiên cứu cải tiến các công nghệ sau đường, cạnh đường và phát triển được cả quy mô và công suất. 

Ngoài ra, các giải pháp về quản lý thị trường như chống đường lậu, nhái thì vẫn phải tiếp tục làm tốt. Đó là giải pháp trung hạn.

Nhà báo Mai Anh: Cùng chung câu hỏi này, xin mời ông Lê Văn Tam, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn chia sẻ ý kiến?

Ông Lê Văn Tam, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn:

Chúng ta cũng đã có nhiều biện pháp, những biện pháp cấp bách hiện nay là vấn đề vốn cho nông dân. Sản xuất mía không tốn nhiều vốn, nhưng nông dân thì trông chờ vào nhà máy, trong khi đó nhà máy đang khó khăn. Cho nên chúng tôi đề nghị Nhà nước cho nông dân vay vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội để hưởng một chính sách ổn định.

Thứ hai, đề nghị Nhà nước nghiên cứu trình Quốc hội miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp để giúp nhà máy có điều kiện tăng giá mía cho nông dân, đó là điều thiết thực và cấp bách nhất.

Thứ ba, những chính sách của Nhà nước, trong Chỉ thị 28 có đầy đủ, nhưng triển khai trong thực tế có nhiều vướng mắc. Cho nên đề nghị Chính phủ có chỉ đạo để thực hiện Chỉ thị 28 này thông suốt hơn.

Thứ tư, việc sản xuất mía manh mún cho nên giá thành cao. Chính phủ cũng đã có chính sách khuyến khích dồn điền, đổi thửa, tích tụ đất đai để có được cánh đồng lớn, cơ giới hóa đồng bộ. Những chính sách chưa đi vào thực tế và chưa có giải pháp cụ thể. Do đó, mong các ngành quan tâm đến việc này.

Cuối cùng, chúng tôi muốn đề nghị Nhà nước và ngành Công thương có chính sách quản lý đường nhập khẩu và chống buôn lậu. Đây là những việc cần giải quyết khẩn cấp. 

 10:30

 Nhà báo Trịnh Mai Anh: Là đại diện cho các doanh nghiệp mía đường, ông có thể khái quát những khó khăn hiện nay của các doanh nghiệp và phân tích nguyên nhân?

Ông Nguyễn Văn Lộc, Quyền Tổng Thư ký Hiệp hội Mía đường Việt Nam:

Chúng tôi tổng kết bốn loại khó khăn và nguyên nhân như sau:

Thứ nhất, vùng nguyên liệu mía bị thu hẹp. Theo đó, từ diện tích mía vụ 2014-2015 là 305.000 ha đã giảm chỉ còn 157.000 ha trong vụ 2019-2020 (giảm gần 50%), nhiều nhà máy đã không có mía để hoạt động. Nguyên nhân dưới tác động của các loại đường phá giá bao gồm nhập khẩu chính ngạch, nhập lậu và gian lận thương mại trong nhiều năm, giá đường Việt Nam luôn ở mức thấp nhất ở trong khu vực và đường sản xuất từ mía liên tục bị tồn kho. Các nước chung quanh ta luôn duy trì được giá hơn 45 USD, trong khi ở Việt Nam, các doanh nghiệp cố gắng lắm cũng chỉ đưa được giá lên 35 USD, và giá này được duy trì ở Trung Quốc luôn là 70 USD.

Qua đó có thể thấy, các nhà máy không thể đưa ra giá mía đủ đảm bảo đời sống cho nông dân trồng mía. Người nông dân không có cách nào khác là đành phải bỏ cây mía. Thực tế giá đường và mía tại Việt Nam những năm gần đây là mức giá thấp nhất trong khu vực. Các quốc gia trồng mía lân cận đều có sự hỗ trợ từ nhà nước trong khuôn khổ bảo vệ giá đường nội địa và chính sách chia sẻ (sharing) giữa nhà máy và nông dân nên vẫn bảo vệ được diện tích trồng mía và sinh kế cho người trồng mía bất chấp các diễn biến bất lợi do thiên tai dịch bệnh và thị trường.

Khó khăn lớn nhất hiện nay chính là các nhà máy không có mía để hoạt động, cần sự hỗ trợ của Nhà nước để doanh nghiệp có thể hoạt động được và người nông dân đủ sống.

Thứ hai, thị trường bị thu hẹp và cạnh tranh quyết liệt, không sòng phẳng. Bắt đầu từ tháng 1-2020 Việt Nam thực thi cam kết ATIGA, đường được tự do nhập khẩu từ các nước ASEAN, nhiều khách hàng công nghiệp lớn của ngành đường đã nhập khẩu trực tiếp và giảm hoặc không mua đường sản xuất từ mía. Thị phần đường còn lại là sân chơi cạnh tranh của các đơn vị thương mại nhập khẩu và hệ thống gian lận thương mại đường nhập lậu, với giá đường bị đẩy xuống sát với giá đường nhập khẩu và có khi thấp hơn, đường sản xuất từ mía chỉ có cách tồn kho hoặc bán lỗ dưới giá thành sản xuất. Nguyên nhân là Việt Nam chưa có các công cụ hữu hiệu để bảo vệ thị trường đường nội địa như các quốc gia lân cận, khi họ (bằng nhiều cách khác nhau) chỉ cho phép đường nhập khẩu được vào thị trường sau khi đường sản xuất từ mía trong nước đã được tiêu thụ.

Thứ ba, vốn cho hoạt động sản xuất cạn kiệt. Tình trạng thị trường giảm cầu và giá đường thị trường thấp dưới giá thành sản xuất kéo dài đã nhiều tháng liên tiếp dưới tác động của dịch bệnh và dòng thác đường nhập khẩu đã làm cho các nhà máy bị cạn kiệt dòng vốn hoạt động, buộc các nhà máy chỉ có hai sự lựa chọn: Một là tiếp tục tồn kho đường để đối mặt với tình trạng cạn kiệt dòng tiền hoạt động (hệ quả là ngân sách sửa chữa bảo dưỡng bị thu hẹp, quỹ lương công nhân bị cắt xén phải nợ lương, thậm chí một số nơi còn chưa thanh toán hết tiền mía cho nông dân dù vụ ép đã kết thúc 3,4 tháng rồi); Hai là nghiến răng bán lỗ một số lượng đường để duy trì dòng tiền hoạt động (và chấp nhận đối mặt với một viễn cảnh còn tồi tệ hơn là sự giảm sút doanh thu và lợi nhuận trong báo cáo tài chính dẫn đến phản ứng tất nhiên từ các ngân hàng: thu hẹp hạn mức tín dụng, thắt chặt điều kiện giải ngân. Báo cáo từ các nhà máy cho thấy hiện các nhà máy đường rất khó tiếp cận nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại phục vụ cho công tác chuẩn bị sản xuất và phát triển vùng nguyên liệu).

Thứ tư, cạnh tranh bất bình đẳng khi hội nhập. Hiện nay có nhiều nước đang áp dụng các biện pháp can thiệp. Có nước trong ba năm gần đây tài trợ 145 USD cho 1 tấn đường.

Trong hoàn cảnh như vậy, thì rõ ràng ngành mía đường của chúng ta đang hoạt động rất khó khăn khi hội nhập. Cái này thì về phía doanh nghiệp thì rất cố gắng nhưng cũng rất mong chờ vào các biện pháp phòng vệ của chúng ta phát huy được tác dụng càng sớm càng tốt, mong là trước khi vào vụ sản xuất mới.

 10:36

 Nhà báo Trịnh Mai Anh: Xin được hỏi ông Lê Văn Tam – Chủ tịch HĐQT Công ty CP mía đường Lam Sơn. Ông đánh giá thế nào về thị trường, cơ chế chính sách của Chính phủ và các bộ, ngành đối với ngành mía đường. Những khó khăn, hạn chế mà doanh nghiệp đang đối diện?

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

Ông Lê Văn Tam, Chủ tịch HĐQT Công ty CP mía đường Lam Sơn:

Về các cơ chế chính sách của Chính phủ và các Bộ ngành đối với ngành mía đường, từ năm 2010 đến nay, Chính phủ và các Bộ, Ban ngành đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp, trong đó riêng lĩnh vực mía đường có một số cơ chế chính sách liên quan như:

Quyết định số 62/2013/QĐ–TTg, ngày 25-10-2013 của Thủ tướng Chính phủ về Chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng mẫu lớn.

Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, ngày 5-7-2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản xuất nông nghiệp.

Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg, ngày 14-11-2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp.

Quyết định số 1369/QĐ-BNN–CBTTNS, ngày 18-4-2018 của Bộ NN&PTNT về phê duyệt đề án phát triển mía đường đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

Quyết định số 4612/QĐ-BNN–CBTTNS, ngày 21-11-2018 của Bộ NN&PTNT về ban hành kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành mía đường giai đoạn 2018–2020.

Mới nhất là Chỉ thị số 28/CT–CP, ngày 14–7-2020 của Chính phủ về triển khai các giải pháp phát triển ngành mía đường Việt Nam trong tình hình mới.

Từ đó, chúng tôi có các đánh giá như sau: Các cơ chế, chính sách của Chính phủ, các bộ, ban ngành sau khi có hiệu lực thì việc ban hành các thông tư, hướng dẫn vẫn còn chậm; nhiều nội dung còn bất cập; các tiêu chí, yêu cầu, điều kiện đưa ra quá cao; thủ tục, hướng dẫn chưa rõ ràng, nặng về hành chính; chưa sát với thực tế, do vậy hầu hết các doanh nghiệp, nông dân rất khó tiếp cận. 

 10:43

 Nhà báo Trịnh Mai Anh: Theo ông Trần Công Thắng, chúng ta nên có giải pháp gì để hỗ trợ người nông dân, doanh nghiệp và bảo vệ ngành mía đường hiện nay?

Ông Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện chiến lược và Phát triển NNNT:

Theo tôi có mấy điểm cần quan tâm. Thứ nhất là cần phải rà soát lại các diện tích sản xuất mía đường và chỉ giữ lại các vùng trồng chiến lược và có hiệu quả. Cần xác định diện tích kém hiệu quả có thể chuyển đổi thì có chính sách khuyến khích và cho phép chuyển đổi; diện tích có lợi thế và phù hợp thì tiếp tục đẩy mạnh áp dụng công nghệ cao, cơ giới hóa trong sản xuất, khuyến khích áp dụng công nghệ 4.0 trong quản lý vùng nguyên liệu để giảm công lao động và tăng tỷ lệ thu hoạch, giảm tổn thất từ đó giảm chi phí trồng mía.

Xây dựng thành vùng sản xuất mía đường tập trung, thúc đẩy áp dụng cơ giới hóa, cải thiện giống mía và quy trình canh tác nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành mía ở những vùng có lợi thế. Đồng thời, tổ chức lại sản xuất phát triển HTX/THT nông nghiệp sản xuất mía liên kết với nhà máy đường để ổn định vùng nguyên liệu sản xuất cho các nhà máy.

Tại các vùng sản xuất thích hợp, tiếp tục nghiên cứu các mô hình canh tác mía hiệu quả ứng phó với hiện tượng khí hậu khắc nghiệt, thay đổi thất thường giúp ổn định sản xuất, năng cao sản lượng và chất lượng mía. Ở những vùng sản xuất không hiệu quả thì mạnh dạn cho chuyển đổi chủ động và có chính sách hỗ trợ người dân chuyển đổi sang cây trồng khác. Nếu có thể tổ chức sản xuất lại, đưa doanh nghiệp vào bao tiêu sản phẩm hoặc nghiên cứu chuyển đổi cây trồng có thị trường ổn định.

Thứ hai, nên mạnh dạn rà soát những nhà máy, những vùng không có khả năng đáp ứng nguyên liệu để có thể hỗ trợ người dân chuyển đổi. Với các nhà máy hoạt động tốt, có vùng nguyên liệu ổn định, Nhà nước hỗ trợ tín dụng cho đẩy mạnh cơ giới hóa trong sản xuất, giảm công lao động và tăng tỷ lệ thu hoạch, khuyến khích áp dụng công nghệ 4.0 trong quản lý vùng nguyên liệu. Hiện nay, Bộ NN và PTNT đang xây dựng Nghị định mới thay thế cho QĐ 68 về giảm tổn thất sau thu hoạch. Đây cũng là chính sách tốt có thể khuyến khích hỗ trợ DN và HTX, hộ trồng mía tăng đầu tư cơ giới hóa.

Thứ ba, áp dụng công nghệ để đẩy mạnh sản xuất và khả năng cạnh tranh. Hiện có nhiều danh nghiệp áp dụng tương đối tốt. Còn nhìn chung với các hộ sản xuất vừa và nhỏ thì vẫn còn hạn chế.

Thứ tư, có chính sách ưu đãi thuế cho việc nhập khẩu máy móc nông nghiệp. Điều này rất thiết thực. Tốt nhất nhà nước nên miễn thuế nhập khẩu máy móc nông nghiệp để khuyến khích cơ giới hóa đồng bộ, nâng cao năng suất. 

Chúng ta cũng cần chủ động theo dõi, kịp thời tình hình nhập khẩu, giám sát về đường nhập khẩu (chất lượng, xuất xứ), đồng thời nghiên cứu và đề xuất các biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường nhập khẩu phù hợp với các cam kết quốc tế, đặc biệt với đường lỏng (siro ngô nồng độ fructose cao) nhập khẩu vào Việt Nam. Đặc biệt là phải đẩy mạnh các biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại đồng bộ, quyết liệt đối với mặt hàng đường.

Thêm nữa, trong hội nhập, chúng ta cần phối hợp để có biện pháp tự vệ về mặt thương mại. Thực tế, đã có những vụ kiện quốc tế mà chúng ta đã thắng kiện. Tuy nhiên để làm được điều này, cần hệ thống thông tin tốt giữa doanh nghiệp, Hiệp hội, Chính phủ…

Chúng ta cũng cần chủ động theo dõi, kịp thời tình hình nhập khẩu, giám sát về đường nhập khẩu (chất lượng, xuất xứ), đồng thời nghiên cứu và đề xuất các biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường nhập khẩu phù hợp với các cam kết quốc tế, đặc biệt với đường lỏng (siro ngô nồng độ fructose cao) nhập khẩu vào Việt Nam. Đặc biệt là phải đẩy mạnh các biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại đồng bộ, quyết liệt đối với mặt hàng đường.

Thêm nữa, trong hội nhập, chúng ta cần phối hợp để có biện pháp tự vệ về mặt thương mại. Thực tế, đã có những vụ kiện quốc tế mà chúng ta đã thắng kiện. Tuy nhiên để làm được điều này, cần hệ thống thông tin tốt giữa doanh nghiệp, Hiệp hội, Chính phủ…

 10:50

 Nhà báo Trịnh Mai Anh: Xin được hỏi đại diện những người nông dân trồng mía, ông Đào Văn Đường, xã Thọ Lâm, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa về những khó khăn và thách thức đặt ra với người nông dân?

Nông dân Đào Văn Đường, xã Thọ Lâm, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa:

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

Theo quan điểm cá nhân tôi, ngành mía đường hiện đang bị sụt giảm lớn cả về diện tích trồng lẫn sản lượng. Nguyên nhân là với diện tích trồng thực tế vẫn ở tình trạng nhỏ lẻ kéo theo chi phí sản xuất cao ảnh hưởng đến năng suất.

Hiện, sản lượng mía 1 ha chỉ đạt 60-70 tấn chỉ đủ chi phí đầu vào và thậm chí là lỗ. Theo tôi, để người trồng mía tiếp tục phát triển cần dồn điền đổi thửa và cơ giới hóa toàn bộ.

Để thực hiện được việc dồn điền đổi thửa thì người trồng mía cần cơ chế hỗ trợ, cụ thể như việc mở rộng cơ chế đất. Hiện, đất nông nghiệp chỉ thuê được tối đa 5 năm, khó cho thu hồi vốn trong việc đầu tư hạ tầng như: hệ thống tưới, điện, máy bơm... nếu có thể mở rộng cơ chế này lên 20-30 năm đủ thời gian để người dân yên tâm đầu tư.

Một khó khăn nữa là công lao động ở địa phương rất cao, bởi nhiều người chọn làm nhà máy, vậy nên rất khó thuê người lao động tại đồng mía. Từ đó, tư tưởng người nông dân bị tác động, mất động lực tham gia nuôi trồng nông nghiệp.

Bên cạnh đó, cần có cơ chế hỗ trợ vốn để người trồng mía cũng như nhà máy sản xuất có thể mở rộng đầu tư, tăng năng suất. Hiện, các chính sách hỗ trợ vốn đầu tư vào cây mía vẫn chưa bình đẳng với cây lúa.

 10:55

 Nhà báo Trịnh Mai Anh: Ngoài sản phẩm đường, ông có thể đánh giá thế nào về nhu cầu, cũng như năng lực sản xuất, chế biến các sản phẩm, các chế phẩm từ mía và các phụ phẩm từ đường? Ông đánh giá thế nào về hướng đi này?

Ông Phan Văn Chinh, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương:

Ngoài các sản phẩm đường, ngành đường còn có hai phụ phẩm là mật rỉ và bã mía. Từ mật rỉ có thể dùng làm nguyên liệu chế biến thành cồn thực phẩm hoặc cồn nhiên liệu để làm xăng sinh học.

Tại Việt Nam, tuy đã có chính sách phát triển xăng sinh học, nhưng hiện nay còn nhiều khó khăn trong việc kinh doanh xăng sinh học E5 khiến việc sản xuất cồn nhiên liệu chưa phát triển được. Hầu hết mật rỉ của ngành đường Việt Nam hiện không chế biến mà bán trực tiếp cho các ngành hàng thực phẩm hoặc thức ăn gia súc.

Từ bã mía có thể dùng làm nhiên liệu đốt để tạo ra năng lượng điện sinh khối. Tuy nhiên giá điện đồng phát bã mía tại Việt Nam còn thấp (thấp hơn giá điện sinh khối và chỉ ở mức khoảng 50% so mức giá điện đồng phát bã mía của các quốc gia trồng mía trong khu vực như Thái Lan và Philippines - các nước này cũng không phân biệt điện đồng phát bã mía và điện sinh khối) nên chưa khuyến khích được sự phát triển của các dự án đồng phát bã mía. 

Ngành đường Việt Nam đã phát triển được 9 dự án điện đồng phát bã mía. Trên cơ sở kiến nghị của Hiệp hội Mía đường Việt Nam, để đa dạng hóa các sản phẩm sau đường, ngày 11-12-2019, Bộ Công Thương đã có Tờ trình số 9507/BCT-ĐL báo cáo Thủ tướng Chính phủ kiến nghị cho phép áp dụng mức giá 7,03 cent/kWh đối với điện sinh khối.

Theo đó, ngày 5-3-2020, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 08/2020/QĐ-TTg về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 24/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện sinh khối tại Việt Nam (với mức giá mua điện tương đương 7,03 cents/kWh tăng 1,23 USD/kWh từ mức 5,8 cents/kWh).   

Đây là thể hiện sự quan tâm của Bộ Công thương với Thủ tướng Chính phủ với xử lý, sử dụng sản phẩm phụ phẩm của nhà máy đường. 

 11:00

 Nhà báo Nguyễn Ngọc Thanh, Trưởng Ban Nhân Dân điện tử phát biểu kết luận Tọa đàm

Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” -0
 

Kính thưa quý vị đại biểu, khách mời, bạn đọc của Báo Nhân Dân điện tử,

Sau hơn 2 giờ, với sự có mặt của cơ quan chức năng, Hiệp hội Mía đường Việt Nam, các doanh nghiệp và đặc biệt là sự có mặt của đại diện ba hộ gia đình trồng mía ở Thanh Hóa, chúng ta thu thập được rất nhiều ý kiến.

Thứ nhất, chúng ta đã làm rõ được vai trò của ngành công nghiệp mía đường trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ đó đặt ra yêu cầu bắt buộc phải tồn tại và phát triển.

Thứ hai, chúng ta cũng đã làm rõ được những khó khăn trước mắt cũng như lâu dài của các doanh nghiệp mía đường, của các hộ nông dân trồng mía. Từ những nguyên nhân được phân tích, chúng ta đưa ra các giải pháp, kiến nghị cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn nhằm tháo gỡ những khó khăn này.

Đặc biệt là trước mắt là làm sao để ngành mía đường, các doanh nghiệp, các hộ nông dân trụ vững trong thời điểm mà chúng ta đang chịu “cú đấm kép” từ dịch Covid-19 và ảnh hưởng của ATIGA. Theo đó, các giải pháp ngắn hạn để trụ vững là các vấn đề về chính sách thuế, hỗ trợ thuế của Nhà nước đối với doanh nghiệp, chính sách cho vay,…nhất là đối với hộ nông dân.

Điển hình như ý kiến của hộ nông dân Thanh Hóa nêu là tại sao các ngành khác đều được Nhà nước hỗ trợ mà ngành mía đường lại chưa được. Đây là một vấn đề mà các cơ quan chức năng cần quan tâm nghiên cứu.

Với vai trò là các cơ quan vừa thực thi, vừa nghiên cứu, tham mưu, mà đại diện là đồng chí có mặt tại đây hôm nay, rất mong các đồng chí quan tâm và có những đề xuất, kiến nghị, có những hướng dẫn cụ thể hơn nữa để thực hiện Chỉ thị 28 mới nhất của Thủ tướng Chính phủ, giúp cho doanh nghiệp, các hộ nông dân có thể vượt qua khó khăn ở giai đoạn này. Qua đó, tiến tới có những giải pháp dài hạn để phát triển ngành mía đường, đặc biệt là công nghệ sinh khối như ông Tam đã đề cập.

Bên cạnh đó, rất mong các cơ quan chức năng, Hiệp hội mía đường Việt Nam có được các biện pháp phòng vệ nhằm bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ các hộ nông dân trước các sự cạnh tranh không lành mạnh khác.

Đồng thời, có những hỗ trợ cụ thể hơn nữa, có những hướng dẫn để thực hiện thiết thực và hiệu quả Chỉ thị 28 của Thủ tướng Chính phủ.

Một lần nữa, thay mặt Ban Nhân Dân điện tử xin trân trọng cảm ơn các vị khách mời, các hộ trồng mía ở Thanh Hóa đã có mặt tại buổi Tọa đàm ngày hôm nay.

Xin trân trọng cảm ơn quý vị bạn đọc Báo Nhân Dân điện tử đã quan tâm theo dõi buổi Tọa đàm trực tuyến “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới”.

Chúc quý vị sức khỏe, thành công và hạnh phúc!