Cơ hội mở rộng hợp tác Việt Nam - EU từ EVFTA và EVIPA

Hôm nay 30-6, theo kế hoạch, tại Hà Nội diễn ra lễ ký chính thức Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU (EVIPA). Ðây được đánh giá là những hiệp định toàn diện, chất lượng cao và cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU.

Dệt may là ngành hàng sẽ được EU xóa bỏ ngay thuế nhập khẩu đối với 42,5% dòng thuế khi EVFTA có hiệu lực. Trong ảnh: Sản xuất hàng dệt may xuất khẩu tại Công ty cổ phần Ðồng Tiến (Ðồng Nai).
Dệt may là ngành hàng sẽ được EU xóa bỏ ngay thuế nhập khẩu đối với 42,5% dòng thuế khi EVFTA có hiệu lực. Trong ảnh: Sản xuất hàng dệt may xuất khẩu tại Công ty cổ phần Ðồng Tiến (Ðồng Nai).

Hai bên cùng có lợi

Với 17 Chương, hai Nghị định thư và một số biên bản ghi nhớ kèm theo, bao gồm các nội dung chính là thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, thương mại và phát triển bền vững, các vấn đề pháp lý, thể chế, EVFTA được coi là một hiệp định toàn diện, chất lượng cao, đồng thời phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cũng như đã lưu ý đến chênh lệch về trình độ phát triển giữa hai bên. Với những cam kết đạt được, dự kiến EVFTA sẽ đem lại lợi ích cho người dân và doanh nghiệp của hai bên trên nhiều phương diện.

Ðầu tiên có thể kể đến là việc mở rộng hơn nữa thị trường và cơ hội cho hàng xuất khẩu, nhất là những sản phẩm mà hai bên có thế mạnh. Theo đó, đối với xuất khẩu của Việt Nam, ngay khi EVFTA có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với khoảng 85,6% dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này. Sau bảy năm, EU tiếp tục xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ðối với khoảng 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại, EU cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%. Cụ thể với từng ngành như dệt may, EU cam kết sẽ xóa bỏ ngay 42,5% dòng thuế khi EVFTA có hiệu lực, số còn lại xóa bỏ theo lộ trình từ 3-7 năm. Gỗ và sản phẩm gỗ cũng được xóa bỏ ngay 83% số dòng thuế, 17% còn lại theo lộ trình từ 3-5 năm. Hoặc như gạo Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU sẽ thông qua cơ chế hạn ngạch thuế quan, trong đó, lượng nhập khẩu trong hạn ngạch sẽ được hưởng mức thuế 0%. Theo EVFTA, EU dành riêng cho Việt Nam tổng hạn ngạch 80 nghìn tấn, bao gồm gạo chưa xay xát 20 nghìn tấn, gạo xay xát 30 nghìn tấn và gạo thơm 30 nghìn tấn. Như vậy, gần 100% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu sau một lộ trình ngắn. Cho đến nay, đây là mức cam kết cao nhất mà một đối tác dành cho nước ta trong các hiệp định FTA đã được ký kết. Lợi ích này đặc biệt có ý nghĩa khi EU liên tục là một trong hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam hiện nay.

Ngược lại, đối với hàng xuất khẩu của EU, Việt Nam cũng cam kết sẽ xóa bỏ thuế quan ngay khi hiệp định có hiệu lực với 48,5% dòng thuế (chiếm 64,5% kim ngạch nhập khẩu). Tiếp đó, sau bảy năm, 91,8% số dòng thuế tương đương 97,1% kim ngạch xuất khẩu từ EU được Việt Nam xóa bỏ thuế nhập khẩu. Sau 10 năm, mức xóa bỏ thuế quan là khoảng 98,3% số dòng thuế (chiếm 99,8% kim ngạch nhập khẩu). Ðối với khoảng 1,7% số dòng thuế còn lại của EU, Việt Nam áp dụng lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu dài hơn 10 năm hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan theo cam kết WTO. Mặt khác, những cam kết về dịch vụ - đầu tư, mua sắm chính phủ cũng như những quy định cụ thể về mở cửa thị trường và biện pháp kỹ thuật trong một số lĩnh vực cụ thể cũng sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp, sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của EU tiếp cận thuận lợi hơn thị trường gần 100 triệu dân của Việt Nam…

Mở ra cơ hội lớn

Ngoài ra, các cam kết của Việt Nam về EU trong EVFTA về thương mại dịch vụ và đầu tư đều hướng tới việc tạo ra môi trường đầu tư cởi mở, thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp hai bên; trong đó, cam kết của EU cho Việt Nam tương đương với mức cao nhất trong các FTA gần đây của EU. Việt Nam cũng cam kết mở rộng cửa hơn cho đầu tư từ EU trong một số ngành sản xuất như thực phẩm và đồ uống, phân bón, đồ gốm, vật liệu xây dựng,… Mặt khác, trong EVIPA, Việt Nam và EU cùng cam kết sẽ dành đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc với đầu tư của nhà đầu tư của bên kia, cũng như sự đối xử công bằng, thỏa đáng, bảo hộ an toàn và đầy đủ, cho phép tự do chuyển vốn và lợi nhuận từ đầu tư ra nước ngoài, cam kết không trưng thu, quốc hữu hóa tài sản của nhà đầu tư mà không có bồi thường thỏa đáng, cam kết bồi thường thiệt hại phù hợp cho nhà đầu tư của bên kia tương tự như nhà đầu tư trong nước hoặc của bên thứ ba trong trường hợp bị thiệt hại do chiến tranh, bạo loạn,... Như vậy, những cam kết về quản trị nhà nước sẽ bảo đảm một môi trường kinh doanh và pháp lý ổn định, thông thoáng cho nhà đầu tư của cả hai bên nói chung và các doanh nghiệp, nhà đầu tư từ EU nói riêng. Thông qua EVFTA và EVIPA, nhà đầu tư EU cũng sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường các nước đã ký FTA với Việt Nam với những đối xử ưu đãi hơn. Hiệp định này cũng giúp thúc đẩy quan hệ giữa EU với từng nước ASEAN nói riêng và cả khối ASEAN nói chung, tạo tiền đề hướng tới việc thảo luận một Hiệp định FTA giữa EU và ASEAN trong tương lai.

Giống như Hiệp định Ðối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), EVFTA là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với mức độ hội nhập sâu rộng nhất từ trước đến nay, có phạm vi cam kết rộng không chỉ bao gồm các cam kết thương mại thuần túy mà còn mở rộng thêm nhiều cam kết khác như lao động, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công, giải quyết tranh chấp,... Mức độ mở cửa của EVFTA cũng sâu rộng hơn so với nhiều FTA mà Việt Nam đã tham gia trước đây với việc xóa bỏ hầu hết các dòng thuế, mở cửa mạnh các lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh,... Lộ trình thực thi cam kết trong EVFTA cũng tương đối ngắn, thông thường chỉ từ 5-10 năm. Ðối với Việt Nam, thực hiện EVFTA là bước đi quan trọng nhằm tiếp tục đa dạng hóa đối tác thương mại - đầu tư cũng như thị trường xuất nhập khẩu, tránh phụ thuộc vào một khu vực cụ thể. Cùng với CPTPP, EVFTA khi thực hiện sẽ tạo thành một hệ thống quan hệ thương mại tự do toàn diện và ổn định giữa Việt Nam với tất cả các đối tác thương mại lớn trên thế giới. Quan trọng hơn, mặc dù hiện tại EU là một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, nhưng thực tế thị phần hàng hóa của chúng ta tại khu vực này vẫn còn rất khiêm tốn. Do đó, nếu xóa bỏ được tới hơn 99% dòng thuế quan theo EVFTA, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội tăng khả năng cạnh tranh về giá hàng hóa khi xuất khẩu vào thị trường quan trọng này. Mức cam kết trong EVFTA có thể coi là mức cam kết cao nhất mà Việt Nam đạt được trong các FTA đã được ký kết cho tới nay. Ðiều này càng có ý nghĩa khi hiện nay, mới chỉ hơn 42% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU được hưởng mức thuế 0% theo Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Các ngành dự kiến sẽ được hưởng lợi nhiều nhất là những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam mà hiện EU vẫn đang duy trì thuế quan cao như dệt may, giày dép và hàng
nông sản.

Theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, EVFTA sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng thêm khoảng 20% vào năm 2020; 42,7% vào năm 2025 và 44,37% vào năm 2030 so với không có hiệp định. Ðồng thời, kim ngạch nhập khẩu từ EU cũng tăng, cụ thể là khoảng 15,28% vào năm 2020; 33,06% vào năm 2025 và 36,7% vào năm 2030. Về mặt vĩ mô, EVFTA góp phần làm GDP của Việt Nam tăng thêm ở mức bình quân từ 2,18-3,25% (năm 2019-2023); từ 4,57-5,30% (năm 2024-2028) và từ 7,07-7,72% (năm 2029-2033).

Lộ trình tiếp theo sau khi ký kết là EVFTA phải được phê chuẩn. Với Luật của Việt Nam, Chính phủ sẽ trình Chủ tịch nước để quyết định thời điểm trình Quốc hội phê chuẩn. Sau khi tiến hành phê chuẩn sẽ có chương trình hành động của Chính phủ cũng như việc sửa Luật sẽ do Quốc hội quyết định. Tương tự như vậy với EU, EVFTA cũng sẽ phải trình ra Hội đồng châu Âu, sau đó trình Nghị viện châu Âu xem xét phê chuẩn. Tuy nhiên, cơ quan này mới được bầu cử và chưa hoàn thiện bộ máy cũng như chưa bầu ra Chủ tịch các Ủy ban bên dưới (trong đó có Ủy ban Thương mại quốc tế chịu trách nhiệm thẩm định và trình EVFTA ra Nghị viện châu Âu). Cho đến khi Nghị viện châu Âu hoàn thiện bộ máy và đi vào hoạt động từ tháng 11 tới, mới có thể bắt đầu xem xét, phê duyệt EVFTA và như vậy, sớm nhất là đến đầu năm 2020, Hiệp định này mới có thể có hiệu lực.

Lương Hoàng Thái

Vụ trưởng Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công thương)