Nhớ người lính Cụ Hồ - Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu

Tôi được gặp ông vào một buổi tối cuối năm 1974, tại căn cứ Ba Lòng - Thủ phủ của Quân đoàn 2 ngày đầu thành lập. Ông mới được điều chuyển từ thủ trưởng một đơn vị trực tiếp chiến đấu lên Quân khu, rồi chuyển sang làm Chủ nhiệm chính trị Quân đoàn.

Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm lại làng Phương Trung, xã Đại Quang, huyện Đại Lộc, Quảng Nam, tháng 3-2016.
Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm lại làng Phương Trung, xã Đại Quang, huyện Đại Lộc, Quảng Nam, tháng 3-2016.

Tuy gặp lần đầu, nhưng những cái tên "Siêu chiến trận" trên chiến trường B4 thì không chỉ có tôi, mà bất cứ người lính Trị - Thiên nào đều biết, đều thuộc làu. Ðó là: Lê Khả Phiêu, Chu Phương Ðới, Hoàng Ðan, Ma Vĩnh Lan, Tăng Văn Miêu, Khánh Lửa, Thân Trọng Một…

Kết thúc buổi giao ban của Cục sáng đó, ông vỗ vai tôi, bảo: "Tối nay các cậu sang tớ chơi". Tối đến, tôi và anh bạn Phùng Huy Thịnh (cùng là phóng viên báo Chiến Sĩ Giải Phóng) soi "đèn pin hạt đỗ" theo đường rừng đến nhà ông. Gọi là "nhà" cho oai, chứ thực chất đó là một căn hầm thùng rộng khoảng 8m2, kết nối phía sau là căn hầm trú ẩn chữ A chìm vào sườn đồi. Cách đó không xa là "Bến đò Tư Lệnh", có mấy chiến sĩ vệ binh vừa bảo vệ, vừa chở đò cho bộ đội đi làm nhiệm vụ qua sông Ba Lòng.

Lập lòe trong ánh lửa rừng từ bếp củi cụm trong hầm thùng rừng đông lạnh, tôi cảm nhận rõ nhất là đôi mắt long lanh như hai đốm lửa bừng lên trên gương mặt gầy sạm của người lính đã dãi dầu, xông pha trận mạc. Cũng chẳng nhớ ông lôi ra từ đâu mấy củ sắn to bằng ống điếu cầy, vừa chia cho tôi và Huy Thịnh mỗi người một củ, ông vừa nói: "Sâm đấy, mời khách quý". Thế là ba thầy trò ngồi xoay quanh bếp lửa bập bùng, lôi dao găm ra bóc vỏ sắn nướng lùi. Tôi chợt nhớ buổi sáng sau cuộc họp giao ban, đồng chí Trưởng ban Cán bộ đã phát theo tiêu chuẩn bồi dưỡng cho cán bộ cao cấp một hộp sâm, ông nhận xong, gửi xuống cho các chiến sĩ bị thương đang điều trị tại Viện 24. Vừa trao gửi hộp sâm, ông vừa cười đùa: "Cuốc xẻng, súng đạn cấp phát từ dưới lên, sâm nhung, đường sữa cấp phát từ trên xuống". Mọi người cười vang, rồi các cán bộ cao cấp đều làm theo ông, vui vẻ tập trung số sâm vừa được phát để gửi xuống bệnh viện. Ngồi đối diện trực tiếp với ông, nghĩ về chuyện hộp sâm buổi sáng, lòng tôi day dứt, băn khoăn. Ông gầy hạc thế kia mà…

Cuộc nướng sắn thật thú vị. Tôi và Huy Thịnh đều háu ăn, chiến trường đói kém nên chỉ cạo vỏ sơ sơ rồi tống luôn sắn vào đống lửa than rừng rực. Chỉ tí xíu thời gian là vỏ sắn đã nứt toác, cháy đen xì. Chúng tôi khều sắn ra, vừa thổi phù phù, vừa ăn ngon lành, miệng nhem nhuốc than tro. Còn ông, ông chậm rãi tách vỏ, cạo sạch nhớt bên ngoài, rồi lấy giấy báo cũ cuốn tròn nhiều lớp. Ông dựng củ sắn nghiêng nghiêng bên bếp, rồi thỉnh thoảng xoay chiều cho chín đều. Chúng tôi chén xong, đi rửa miệng, rồi tu nước ừng ực, quay vào thấy ông vẫn ngồi xoay sắn nướng. Chuyện trò hồi lâu, ông mới lấy sắn, bóc các lớp giấy báo ra. Chu cha! Củ sắn vẫn trắng tinh, thơm nức. Ông bửa ra thành mấy khúc, bảo: "Chúng mình ăn đi!". Chúng tôi thèm lắm, nhưng nhìn nhau, rồi cả hai khăng khăng từ chối: "Chúng em no lắm rồi, Thủ trưởng ơi…!". Rồi ông hỏi Huy Thịnh về tình hình bộ đội ở Sư đoàn 325, hỏi tôi về trận đánh Thượng Ðức - "Mắt Rồng" mà Trung đoàn 3 của chúng tôi vừa đánh thắng. Thú thật, hồi đó tôi là lính trận lên làm báo, chẳng biết nhiều về tầm chiến lược, chiến thuật của các trận đánh, nên cứ vô tư, toang toác say sưa kể về gian khổ, sự ác liệt, hy sinh, dũng cảm chiến đấu của đồng đội với lính dù địch. Ông ngồi yên lặng lắng nghe, đến khi tôi nhận ra gương mặt ông chùng xuống, đôi mắt rơm rớm, mới chột dạ chững lại…!

Ðêm ấy, tôi trằn trọc, thao thức một hồi lâu nghĩ về ông, nghĩ về chuyện hộp sâm ông nhường cho lính bị thương, nghĩ về đức tính kiên trì, chan hòa, gần gũi khi ngồi nướng sắn, nghĩ về đôi mắt rơm rớm lệ của ông.

Chiến dịch giải phóng miền nam đầu năm 1975 thôi thúc, người lính nào cũng háo hức. Cục Chính trị Quân đoàn tỏa đi theo nhiều mũi tiến công địch, cho đến ngày giải phóng Sài Gòn, do tính chất công việc nên tôi không có điều kiện để được gặp lại ông.

…Cho đến một sáng chủ nhật thời bao cấp, cuối những năm 80 của thế kỷ 20, tại nhà tập thể Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, số 108 Trần Hưng Ðạo, tôi đang ngồi chơi với con trai, thì có ai đó gọi với từ dưới sân lên báo tôi có khách tìm. Từ gác ba ngó xuống, tôi thấy một người đàn ông lớn tuổi, mặc thường phục, đầu đội chiếc mũ cối bộ đội còn mới, tôi chạy xuống. Chợt nhìn, tôi ngỡ ngàng chưa nhận ra ông. Ông cười hiền hậu, đôi mắt lấp lánh, tôi mới buột miệng: "Ôi thôi chết… Thủ trưởng Phiêu!". Qua các phương tiện thông tin, tôi biết ông đã là cấp tướng, chinh chiến khắp mọi miền, làm nhiệm vụ quốc tế tại Cam-pu-chia, Lào, nay về giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thế mà, ông vẫn nhớ tới người lính quèn như tôi, hôm nay lại đến thăm nữa, nên tôi bối rối, ứng xử vụng về lắm. Tôi hỏi: "Sao Thủ trưởng biết nhà em, Thủ trưởng đến đây bằng phương tiện gì?". Ông bảo: "Cùng là lính tráng Trị - Thiên cả, sao lại không biết cậu ở đâu. Tớ đi bộ, từ Lý Nam Ðế đến đây chừng hơn cây số chứ mấy". Ông bước phăng lên cầu thang. Nhìn căn phòng tập thể đơn sơ, tuềnh toàng của tôi, ông động viên: "Cố gắng, cố gắng vượt qua giai đoạn khó khăn này. Cán bộ kiểm sát nghèo, tức là trong sạch, không tham ô. Người lính trận xưa, nay trên mặt trận mới phải phát huy bản chất Anh Bộ đội Cụ Hồ, học tập, rèn luyện, xây dựng tập thể chi bộ, cơ quan vững mạnh là xã hội sẽ tốt lên, cuộc sống sẽ tốt lên".

Sau một hồi hàn huyên, ông bảo: "Mình đèo tớ đi lòng vòng quanh phố tí nhá?". Tất nhiên là tôi không từ chối, nhưng cứ lo lo, vì ông là người rất quan trọng, đi không có bảo vệ, lỡ xảy ra chuyện gì thì gay. Thứ nữa là tôi chỉ có chiếc xe "năm mươi" cà tàng, thỉnh thoảng lại tự nhiên chết máy. Như đọc được nỗi phân vân của tôi, ông bảo: "Ngại gì! Chiến tranh trong lòng địch còn chả sợ… Ta cứ đi đi, xe hỏng đâu sửa đấy". Ðược giải tỏa nỗi lo, tôi xuống hầm nhà, dắt xe ra, đạp nổ máy phành phạch ầm ĩ, khói mù mịt khu tập thể. Thầy trò lòng vòng phố phường Hà Nội, Hàng Ngang, Hàng Thiếc, Bát Sứ, Hàng Ðào… Ðến gần trưa, ông bảo tôi dừng xe vào chợ "Âm Phủ". Chợ này nằm trên nền cũ khu mộ tập thể các liệt sĩ Cách mạng, những nhân sĩ, trí thức yêu nước bị thực dân sát hại. Khi thành phố cất bốc, di chuyển các liệt sĩ đến nghĩa trang xong, đã dùng vùng đất này làm chợ. Chợ thông từ phố Lý Thường Kiệt sang phố Hai Bà Trưng. Tên chợ được đặt là 19-12 để ghi dấu ngày địch tàn sát những người yêu nước. Nhưng bà con ta đã tự đặt là chợ Âm Phủ để răn nguyện sự thiêng liêng cao cả khi kinh doanh trên mảnh đất này.

Tại chợ, ông thân tình hỏi thăm giá cả hàng hóa, sản xuất, vận chuyển, lời lãi rất cặn kẽ, chi li. Bà con buôn bán ở chợ thấy một ông già gần gũi, chân tình, nên ai cũng xởi lởi vui vẻ bộc bạch. Ðầu chợ phía phố Hai Bà Trưng có một cửa hàng mậu dịch quốc doanh bán thịt lợn, người mua xếp hàng dài rồng rắn cùng những hàng gạch, gỗ bày ra thay số thứ tự. Tới đây, ông dừng lại đứng nhìn đăm đắm. Kế đó, xen lẫn với những gánh hàng rau quả bày trên nền đất, có mấy chị xách bị phủ lá chuối. Họ mời chào ông và tôi: "Bố ăn cho con hai lạng thịt đi…", "Hai bố con ghé đây, con cắt cho bố hai lạng dọi tươi…". Ngày ấy, cán bộ, công nhân, viên chức đều được Nhà nước phân phối thịt bằng tem phiếu, có ký hiệu B, C, D, E tùy thuộc vào cấp chức, với tiêu chuẩn vài lạng mỗi tháng. Trường hợp nhà có người ốm đau hoặc có việc cần, cán bộ mới dám ra chợ mua thịt lậu giá cao, gọi là "thịt chợ đen". Ai xông xênh lắm thì cũng chỉ có tiền mua chừng hai lạng. Cho nên cán bộ ta còn bị gán cho cái tên "cán bộ hai lạng". Ở chợ Âm Phủ hôm ấy, các chị bán "thịt chợ đen" cũng chào mời thầy trò tôi theo "cái danh hai lạng" như vậy. Tôi cũng có ý định mua hai lạng, đang cúi xuống ngó nghiêng bị thịt của một chị, thì bỗng nhiên chị này vơ dao, cân, xách bị vụt chạy. Khu chợ khoảng dăm bảy hàng thịt ngồi lẫn trong đám hàng rau cũng vội vã vuột chạy tán loạn. Thì ra, có một tốp cán bộ quản lý thị trường đi kiểm tra, họ giằng kéo, bắt giữ, tịch thu. Lời van xin, tiếng quát nạt ầm ĩ. Ông đứng đó như trời trồng, lặng người chứng kiến cảnh tượng nhốn nháo. Tôi đến kéo tay ông, nói "mình về chưa, Thủ trưởng?" mới nhận ra nước mắt đã thành dòng trên gò má đồi mồi, sạn chai của ông.

Trên đường về, ông chuyện trò với tâm thế day dứt: Chẳng lẽ ngay trên khu đất nấm mồ những người yêu nước đã đổ máu, đã hy sinh không tiếc thân mình cho đất nước, cho dân giàu nước mạnh mà lại diễn ra cảnh như vậy sao? Cảnh dân nghèo, ngăn sông cấm chợ, cảnh "cán bộ hai lạng", phải được giải quyết triệt để chứ, nhưng bằng cách nào đây? Tại sao! Tại sao lại như vậy? Ông cứ nhắc đi, nhắc lại câu hỏi ấy. Tại sao? Sau này, khi đất nước ta phát triển mạnh mẽ, đời sống nhân dân khá giả, không còn cảnh tem phiếu xếp hàng, thị trường tràn ngập hàng hóa, nhớ về chuyện này, tôi tin chắc chắn rằng: Những chuyện ông đã gặp ở chợ Âm Phủ hôm đó đã thấm vào tiềm thức, thấm vào trong các ý kiến của ông khi đóng góp cho Ðảng ta trên con đường đổi mới, mở cửa thông thoáng cho người dân, đất nước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Năm 1998, tôi được giao nhiệm vụ chuyển đến một cơ quan mới để tham gia giải quyết một vụ việc tiêu cực hết sức phức tạp, khó khăn, tôi lại có dịp gặp ông. Lúc đó ông đã giữ chức Tổng Bí thư của Ðảng ta. Ở cương vị cao và quan trọng bậc nhất, với bao công việc bộn bề như vậy, nhưng gặp ông thật đơn giản, dễ dàng. Ông cử anh Thế thư ký sang tận phòng anh Vũ Quốc Hùng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nơi tôi đến họp bàn công việc tại phố Nguyễn Cảnh Chân để đón tôi. Ông rót nước cho tôi uống. Câu đầu tiên ông hỏi không phải là về công việc lớn lao, quan trọng theo cách nghĩ của tôi, mà là: "Cậu có hay gặp anh em trong đơn vị không? Này! Mấy tay ở đơn vị ta, ra với cơ chế thị trường, giữ vững bản lĩnh, phẩm chất người lính, phát huy vai trò đảng viên nên đều làm được đấy".

Tôi chợt nhận ra, ông đã khơi dậy trong tôi những đức tính cao cả thiêng liêng của người lính, giữ vững phẩm chất của Bộ đội Cụ Hồ, trước mọi thử thách là sẽ vượt qua. Chắc lúc đó diện mạo tôi có chiều băn khoăn, lo lắng khi phải đương đầu trước sự việc tiêu cực, phức tạp, ông vỗ vai tôi thật thân thiện, nhẹ nhàng: "Phải làm rõ, thật chính xác sự việc, công khai trước tập thể Ðảng bộ, như vậy kẻ xấu hết đường lấp ló. Nhưng mà phải nhớ vừa chống vừa xây nhá. Không phải tìm ra kẻ xấu để mà vùi dập họ, sai đến đâu xử đến đó, làm sao để cái anh suy thoái, hư hỏng ấy nhận ra mà cải tà quy chính, họ có đi tù cũng biết cái sai của mình mà sửa, mà tiến bộ; phê bình kiểm điểm bằng lý, nhưng xử lý bằng tình. Phải xây dựng tập thể, trước hết là chi bộ, Ðảng bộ cơ quan thật sự trong sạch, vững mạnh, sau là xây dựng tập thể cơ quan. Như ta đánh giặc ngày xưa ấy, tập thể đơn vị không đoàn kết, không mạnh thì sao thắng được. Làm việc như thế mới trọn vẹn, cậu thấy như thế có ổn không?". Tôi tiếp thu ý kiến của ông, rồi vững bước hoàn thành nhiệm vụ.

Không có nhiều thời gian được làm việc gần bên ông, nhưng những chỉ dẫn của ông, lối sống bình dị, gần gũi, sự đồng cảm và tài đoán định trong những khoảnh khắc ngắn ngủi tiếp xúc làm việc với ông từ thời chiến tranh đến nay luôn in đậm trong tâm trí tôi, trở thành niềm tin và động lực lớn cho tôi trong cuộc sống. Nghe tin ông mất, nước mắt tôi bỗng tuôn trào...

Ðồng chí Lê Khả Phiêu - ông là người lính, mãi mãi là người lính trong tâm trí những người lính chúng tôi.

Ngày 7-8-2020.

Luật sư, Tiến sĩ PHẠM HUỲNH CÔNG