Dòng họ “Yết Kiêu” vùng sông nước Cà Mau

NDO -

NDĐT - Bà con vùng sông nước mũi Cà Mau thường gọi ông Nguyễn Văn Tốt (Năm Tốt) là ông Năm thợ lặn. Gần suốt cuộc đời kiếm sống bằng nghề thợ lặn, ông Năm Tốt còn truyền lại nghề để đàn con, đám cháu nối nghiệp, trở thành dòng họ “Yết Kiêu” lừng danh với tấm lòng hảo hán, tình thương người lúc hoạn nạn. Thế nhưng, những người thợ lặn như ông lại có đời sống bấp bênh, đối mặt với tai nạn rình rập và tương lai mù mờ gần như vô định…

Ông Nguyễn Văn Tốt (Năm thợ lặn) cả đời theo nghiệp thợ lặn.
Ông Nguyễn Văn Tốt (Năm thợ lặn) cả đời theo nghiệp thợ lặn.

Gặp lại ông Năm thợ lặn

Ở miền biển Sông Đốc (huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau), không mấy người biết “tên cúng cơm” của ông Nguyễn Văn Tốt, nhưng khi hỏi nhà ông Năm thợ lặn thì mọi người rành lắm. Bởi lẽ, cuộc đời của ông Năm Tốt mang nghiệp chướng thợ lặn từ lúc nào ông cũng không nhớ nổi.

Xe dừng lại gần chân cầu Rạch Ruộng. Men theo con hẻm nhỏ dẫn xuống bờ sông Ông Đốc, ngôi nhà ông Năm thợ lặn ở giữa cụm dân cư tự phát, chen chúc, chật chội. Cũng na ná như bao nhiêu gia đình lân cận, “tổ ấm” của ông Năm thợ lặn chỉ khoảng 60m2, xây bằng cột đước, mái tôn thấp lè tè, còn hai bên vách chắp vá bằng nhiều vật liệu. Dưới bến sông Ông Đốc, sau nhà của ông Năm có vài chiếc tàu gỗ không lành lặn, máy móc thì cũ kỹ với nhiều cuộn dây ống hơi lòng thòng.

Trong căn nhà chật chội, ông Năm Tốt ngồi xếp bằng, ưỡn ngực, lấy hơi lên giọng đứt quãng, thỉnh thoảng gương mặt nhăn nhó với tiếng ho sù sụ. Gặp lại lần này, trông ông già hơn ở cái tuổi 72, da tay sần sùi, tóc cháy nắng, vàng hoe. Biết tôi qua hai lần gặp trước nên ông nhận ra ngay người quen, kêu đứa nhỏ pha trà đãi khách. Hỏi thăm về tình hình sức khỏe, ông Năm nhăn nhó, than vãn: “Mấy năm rồi không được khỏe, tôi không lặn mò kiếm ăn được nữa nên phải nhờ con, cháu lo cho cái ăn và chút tiền mua thuốc uống”.

Cơ duyên nào ông chọn nghề thợ lặn? Ông Năm Tốt xởi lởi: “Tôi không nhớ mình biết lặn lúc nào, chỉ biết trầm mình dưới Biển Hồ (Campuchia) để mò sắt vụn, đồng nát và những thứ gì bán được để có tiền mua gạo đắp đổi cái ăn qua ngày. Thỉnh thoảng, có người mướn lặn mò tài sản, riết rồi thành quen, chớ có chọn lựa được nghề nghiệp gì đâu…".

Rồi ông tiếp nối câu chuyện: Ông sống với cha mẹ ở Biển Hồ bằng nghề đánh bắt cá, lặn mò phế liệu, lặn thuê kiếm sống. Hồi đó, gia đình ông sống trên chiếc ghe cũ, lênh đênh trên Biển Hồ. Khoảng năm 1976, chiến tranh xảy ra ở Campuchia, gia đình ông chạy giặc về Rạch Giá (Kiên Giang), sau đó xuôi ghe về cửa biển Sông Đốc làm nghề thợ lặn.

Ở vùng đất mới, vợ chồng ông Năm Tốt và các con sống trên chiếc tàu gỗ, bể be, vừa đi vừa lặn kiếm tiền mua gạo ăn. Ở đâu dưới đáy sông sâu có nhiều sắt vụn, vợ chồng, con cái ông cắm sào, đậu ghe lâu hơn để lặn, hết đồ thì di chuyển ghe đi nơi khác. “Nhờ miệt mài, chăm chỉ lặn mà gia đình tôi dành dụm đủ tiền cất được cái nhà ở miền biển Sông Đốc, bám trụ đến tận bây giờ. Dù căn nhà hơi tồi tàn, chắp vá nhưng với tôi, đó là điều may mắn lắm rồi” – ông Năm thợ lặn thổ lộ.

Bà Hà Thị Lượm - vợ ông một tay bưng ấm trà, tay còn lại để chén thuốc nam xuống sàn nhà. Bà lại gần ông thủ thỉ nói nhỏ: “Thấy ổng nghèo vậy chớ có tài lặn giỏi nên tôi thương. Rồi đi tới đâu, con trai cũng được người ta kêu gả con gái. Con gái được người ta xin cưới. Nhờ vậy mà vợ chồng tôi dựng vợ gả chồng được cho các con đều bởi cùng cảnh nghèo, không đất đai, kiếm sống bằng nghề lặn hụp dưới sông, dưới biển”.

Lừng danh thợ lặn

Ông Năm thợ lặn bấm đốt ngón tay liệt kê: Con trai đầu của ông là Nguyễn Văn Sến (Hai Sến) ở Vàm Xoáy (xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau) và con trai thứ sáu là Nguyễn Văn Đông (Sáu Đông) đều có biệt tài lặn mò đồ cổ dưới biển. Bây giờ, vợ chồng ông nương tựa con trai út là Nguyễn Văn Tiền, cũng nối nghiệp làm nghề thợ lặn.

Tìm dấu vết dòng di cư của các con ông Năm thợ lặn như một huyền thoại dòng họ “Yết Kiêu” ở miền biển Cà Mau. Ông Nguyễn Văn Đá, ở ấp Mũi (xã Đất Mũi) còn nhớ mồn một mùa biển động năm 2000, có một tàu cá bị sóng lớn, gió lốc đánh chìm ngoài khơi. Ba ngư phủ bị xô ngã, trôi dạt trên biển, được tàu cá khác cứu vớt. Nhưng còn hai ngư phủ mất tích, nghi ngờ chìm theo con tàu giữa biển. Chủ tàu cầu cứu nhiều thợ lặn ở xã Đất Mũi và tìm được vị trí tàu chìm, ở độ sâu khoảng 35 sải tay (tức gần 60m). Song, những thợ lặn lắc đầu, không dám lặn xuống vớt xác ngư phủ và trục vớt tàu chìm bởi với độ sâu ấy, cánh hành nghề thợ lặn “lành ích dữ nhiều”. Họ mách với chủ tàu cá, ở cửa biển Sông Đốc có ông Năm thợ lặn giỏi lắm.

Dòng họ “Yết Kiêu” vùng sông nước Cà Mau ảnh 1

Các cháu ông Năm thợ lặn “cào thôn” vệ sinh tàu cá cho ngư dân miền biển Sông Đốc.

Chủ tàu cá tức tốc chạy xuồng máy từ Đất Mũi qua Sông Đốc hơn 60 km để cầu cứu ông Năm thợ lặn. Ngặt nỗi, ông Năm tuổi già, ngại đi xa nên cử con trai là Nguyễn Văn Sến và đứa cháu nội là Nguyễn Văn Lâm (con ông Sến) sang đó giúp đỡ người bị nạn. Ra tới biển, trời âm u, Hai Sến đứng nhìn tìm dấu vết con tàu chìm. Con trai ông là Nguyễn Văn Lâm gật đầu, cho máy nổ bơm ô-xy sẵn sàng. Tức khắc, Hai Sến ngậm ống ô-xy nhảy xuống biển. Những người làm thợ lặn đi theo hỗ trợ, đứng trên tàu hồi hộp, đăm đăm vào cử động sợi ống ô-xy từ từ rút xuống biển. Gần một tiếng đồng hồ, những người có mặt trên tàu thở nhè nhẹ, lắng nghe tiếng máy đều đều bơm ô-xy.

Không lâu sau, Hai Sến nổi lên mặt biển, tháo kính lặn, vuốt mặt, leo lên tàu. Mọi người nháo nhào: “Hai Sến có ra máu lỗ tai không? Có khó thở không? Có sao không?”. Hai Sến thở hổn hển, nói không sao cả, hơi bị lạnh. Con trai ông Hai Sến đưa cho cha ca nước mắm cốt, ông ực một cái rồi kêu mọi người chuẩn bị thùng phuy, can nhựa để trục vớt con tàu chìm. Cách trục vớt tàu chìm của Hai Sến là dùng vật chứa không khí để “đánh” tàu chìm lên mặt nước. Vài tiếng sau đó, chiếc tàu cá bị chìm được nâng lên mặt nước, xác hai ngư phủ bị kẹt trong ca bin còn nguyên vẹn thi thể, được gia đình đón nhận đưa về quê mai táng.

Sau ngày ấy, gia đình ông Hai Sến di chuyển đồ đạc qua định cư luôn ở Vàm Xoáy, thuộc ấp Mũi của xã Đất Mũi. Hằng ngày, ông Hai Sến và con ruột, con rể rong ruổi theo con nước lớn ròng của sông, của biển để kiếm sống bằng nghề thợ lặn. Ngoài lặn mò sắt vụn, phế liệu, gia đình ông còn kiếm sống bằng nghề cào thôn (vệ sinh tàu cá). Tuy bận bịu với cái ăn qua ngày nhưng mỗi khi có người chết đuối dưới sông, dưới biển, cha con ông Hai Sến luôn sẵn lòng giúp đỡ, mò vớt xác nhưng nhất quyết không lấy tiền công. Có người nài nỉ hoài không được nên chở vài chục ký gạo để trước nhà gọi là đền ơn cha con ông. Cũng vì lẽ đó, gia đình ông Hai Sến được mọi người yêu quý, trở thành chỗ dựa cho bà con ở Đất Mũi mỗi khi gặp xui rủi trên sông, trên biển…

Mù mịt đáy sông

Biết rõ nguy hiểm nhưng vì sao con trai, con rể và cháu nội, cháu ngoại của ông vẫn chọn nghề thợ lặn như nghiệp chướng cho đời? Ông Năm thợ lặn buông giọng buồn: “Không kiếm sống được trên bờ đành lặn xuống sông mò tìm miếng ăn. Thế nhưng, dưới đáy sông cũng mù mịt như cuộc đời của cha con tôi”.

Lần giở lại những tư liệu ghi chép về gia đình ông Năm thợ lặn mới biết, khoảng năm 1990, Hai Sến lặn tìm tàu chìm, bị “ép nước” đau đầu, phải lên tàu nằm nghỉ giữa chừng nhưng cơn đau càng lúc càng dữ dội. Không lâu sau, hai lỗ tai của Hai Sến bị ù, nổ lụp bụp, rồi ông ngất lịm. Bà Trần Thị Thủy, vợ ông Hai Sến tiếp nối câu chuyện: “Sau lần đó, gia đình đưa ảnh (Hai Sến) lên tận Sài Gòn chữa trị mấy tháng trời. Bác sĩ điều trị nói ảnh bị thiếu ô-xy não do lặn sâu. Rồi thằng Quân (Nguyễn Văn Quân, con ông Hai) cũng bị bể màng nhĩ, nó giờ không bình thường, nói tiếng Tàu, tiếng Tây không hà, không nghe được”.

Bà Thủy không nhớ chính xác họ hàng hai bên có bao nhiêu người bị thần kinh do lặn, tàn phế, phải nuôi suốt đời. Bà chỉ mang máng cả bên vợ, bên chồng có đến hơn 20 gia đình làm nghề lặn. Tất cả đều có đặc điểm chung là hầu hết không biết chữ, chỉ có mấy đứa nhỏ sau này biết đọc.

Trong ngôi nhà của ông Năm thợ lặn treo rất nhiều giấy khen của ông và con cháu tham gia Hội chữ thập đỏ, tham gia cứu người, tìm kiếm người bị nạn. Nhiều giấy khen trong số đó đã úa màu theo thời gian. Đưa mắt về hướng biển xa xăm sau khi nghe bản tin báo bão Tembin suy yếu thành áp thấp nhiệt đới, ông Năm thợ lặn thở phào nhẹ nhõm. Ông nói: “Ngày trước ít có bão nhưng chỉ cơn bão số 5 (bão Linda) năm 1997, cha con tôi đi vớt tàu chìm, vớt xác người suốt ngày. Giờ thì bão xuất hiện liên tục, gần Tết rồi mà cũng có bão. Hy vọng bà con mình đừng chủ quan để cảnh đau buồn không tái diễn”.

Chiều tà, mặt trời chiếu trên mặt nước chảy ra cửa biển Sông Đốc một màu vàng rực, óng ánh. Nước sông khi lớn khi ròng, khi trong khi đục, nhưng người làm nghề lặn cả đời cứ cơ cực. Bà Hà Thị Lượm (72 tuổi) đã sinh cho ông Năm Tốt ba người con trai đều giỏi nghề thợ lặn. Rồi mấy người con rể, cháu nội, cháu ngoại cũng theo cha mẹ chúng lặn ngụp từ nhỏ dưới sông, phụ cha mẹ kiếm sống qua ngày. Vào các ngày “có trăng”, tàu cá nườm nượp cặp bến sau chuyến biển dài ngày. Nhiều chủ tàu miền biển thuê con, cháu ông Năm lặn cào thôn vệ sinh tàu, tháo lắp chân vịt. Những ngày tàu ra biển, cánh thợ lặn của gia đình ông Năm Tốt tiếp tục trầm mình xuống đáy sông để tìm kiếm phế liệu. Nghe họ kể mới hiểu tại sao nghề lặn cứ “cha truyền, con nối”, anh em thân tộc kết đoàn đi lặn chung.

“Ai không đất cát, vốn liếng mới mang nghề này vào thân. Thấy vậy mà bạc bẽo lắm”- bà Hà Thị Lượm bỏ lửng câu nói, đưa mắt về bến sông khi trời lúc chiều tà.