Giáo sư Trần Văn Thọ, thành viên tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc:

“Việt Nam đang có cơ hội thu hút các nguồn lực để đẩy mạnh phát triển”

Giáo sư Trần Văn Thọ từng giảng dạy tại Đại học Waseda (Tokyo) - thành viên chuyên môn trong Hội đồng Tư vấn kinh tế của nhiều đời Thủ tướng Nhật Bản. Trước khi trở thành thành viên tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, GS Trần Văn Thọ từng tham gia tổ tư vấn cải cách kinh tế và hành chính của Thủ tướng Võ Văn Kiệt và cộng tác với Ban nghiên cứu chính sách của Thủ tướng Phan Văn Khải. Mới đây, GS Trần Văn Thọ đã đề xuất với Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc về những giải pháp chuẩn bị cần thiết để ứng phó với nguy cơ quá tải hệ thống y tế trước kịch bản dịch Covid-19. Giáo sư đã dành cho Nhân Dân hằng tháng cuộc trao đổi chung quanh cuộc chiến chống Covid-19 và làm thế nào để đưa kinh tế Việt Nam phát triển trong bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi do sự tác động của đại dịch.

“Việt Nam đang có cơ hội thu hút các nguồn lực để đẩy mạnh phát triển”

Giáo sư đánh giá thế nào về cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 ở Việt Nam giai đoạn vừa qua? Và với góc nhìn của một người sống ở nước ngoài, theo Giáo sư, điều khác biệt nào đã giúp Việt Nam chống dịch thành công, trong khi nhiều nước còn đang chìm trong những làn sóng của đại dịch Covid-19?

Công cuộc chống đại dịch Covid-19 ở Việt Nam diễn ra một cách sống động, ngoạn mục và đưa đến kết quả làm thế giới ngạc nhiên. Tôi nghĩ Việt Nam đã thành công do ba yếu tố chính: Thứ nhất, lãnh đạo Đảng, Chính phủ đã đánh giá chính xác tầm nguy hại của đại dịch, nêu quyết tâm "chống dịch như chống giặc" và đưa ra những quyết định kịp thời, động viên cả hệ thống chính trị cùng khẩn trương hành động. Đại dịch SARS năm 2003, ngoài Trung Quốc, Việt Nam là một trong những quốc gia bị nặng nhất cũng giúp Việt Nam hiểu được tác động của đại dịch. Thứ hai, dân chúng Việt Nam có tính tự giác cao, chấp hành nghiêm túc các quyết định của Chính phủ; nhanh chóng khai báo và chấp hành cách ly triệt để. Cộng đồng đoàn kết và cũng tỏ thái độ nghiêm khắc với những cá nhân thiếu tự giác. Thứ ba, tinh thần trách nhiệm, đức hy sinh của bác sĩ, y tá và nhân viên ở bệnh viện, ở các cơ sở y tế khác là rất lớn, đáng được biểu dương. Nói chung Việt Nam có truyền thống chống ngoại xâm, giặc đến thì muôn người như một đoàn kết và hành động chung quanh lãnh đạo, và luôn giành thắng lợi. Lần này khẩu hiệu "chống dịch như chống giặc" rất hay và có tác dụng lớn.

Một hoặc hai trong ba yếu tố nói trên cũng thấy ở các nước khác nhưng hiếm có nước nào hội đủ ba điều kiện ấy nên có ít nước thành công như Việt Nam. Đặc biệt tại nhiều nước ý thức của người dân không cao hoặc thiếu cảnh giác, không muốn thay đổi cách sống, v.v.

Dịch Covid-19 tác động xấu tới nền kinh tế Việt Nam, nhưng Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định: "trong nguy có cơ". Theo GS "cơ" đó là gì, và làm thế nào để nắm bắt thời cơ để thoát khỏi những "nguy" để đưa đất nước tiến lên?

Về vấn đề "trong nguy có cơ", theo tôi có hai điểm tích cực. Đó là, qua việc chống dịch ta đã thấy những chỗ yếu trong hệ thống y tế và sự bức thiết phải cải thiện tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến cao, cần phải cải tiến chất lượng bệnh viện, nâng cao chuyên môn và hỗ trợ trang thiết bị tại các cơ sở y tế địa phương. Nói chung phải đầu tư nhiều hơn cho y tế cộng đồng để người dân sống an toàn với dịch. Kết quả là người nghèo, người có thu nhập thấp cũng được tiếp cận tốt hơn, nhiều hơn với dịch vụ y tế, một khía cạnh quan trọng của chiến lược phát triển bao trùm.

Mặt khác, thành công trong chống dịch làm cho hình ảnh Việt Nam là nơi an toàn cho sinh hoạt và hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đúng vào lúc này, tình hình chính trị, kinh tế thế giới thay đổi làm chuyển dịch dòng chảy đầu tư trực tiếp (FDI) từ Trung Quốc sang các nước khác. Do đó, Việt Nam đang có cơ hội thu hút các nguồn lực về tư bản, công nghệ để đẩy mạnh phát triển. Kinh tế Việt Nam đã phụ thuộc nhiều vào FDI nên hiện nay cần chọn lựa những dự án tốt, có công nghệ cao, có sức lan tỏa, có sức liên kết với doanh nghiệp trong nước. Chủ động đón thời cơ này Việt Nam sẽ nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao hơn.

Trong một bài viết của mình, GS khẳng định đại dịch Covid-19 đã làm thay đổi tất cả. Chúng ta phải thay đổi tư duy phát triển và vẽ ra một viễn cảnh mới về tương lai Việt Nam. Xin GS cho biết chúng ta cần thay đổi tư duy phát triển như thế nào và viễn cảnh mới về tương lai Việt Nam ra sao?

Trong tương lai với tiền đề mọi người sẽ phải sống chung với đại dịch, kinh tế thế giới sẽ phải thay đổi và tư duy phát triển của Việt Nam cũng phải khác với các lý luận đã có. Các quan hệ như tập trung và phân tán, đô thị và nông thôn, công nghiệp và nông nghiệp, nội địa và toàn cầu hóa, truyền thống và hiện đại sẽ chuyển theo hướng khác hoặc có điều chỉnh so với những gì đã thấy trong quá khứ. Theo đó, về tương lai Việt Nam, trong tư duy phát triển mới, nông, công nghiệp và dịch vụ hầu như phải đồng thời phát triển dù trong giai đoạn trước mắt công nghiệp hóa phải được chú trọng. Lý do là thế giới có khả năng thiếu lương thực, Việt Nam cần phát huy lợi thế nông nghiệp hơn trước. Mặt khác, do sản xuất công nghiệp có khuynh hướng tự động hóa và việc xuất khẩu lao động sẽ không nhiều như trước, ta phải phát triển các ngành dịch vụ nữa mới bảo đảm công ăn việc làm cho lực lượng lao động của một nước có dân số hơn 100 triệu.

Vấn đề đô thị hóa và phát triển nông thôn phải được đặt lại theo hướng mới: do phải tránh tập trung vì phòng ngừa đại dịch, ta phải phát triển nông nghiệp kết hợp với công nghiệp thực phẩm và xây dựng hạ tầng kinh tế và văn hóa, nông thôn sẽ giữ lại một lực lượng lao động và dân số nhất định. Việt Nam sẽ không quá tập trung vào hai thành phố lớn như hiện nay mà sẽ phân tán đến nhiều thành phố cỡ trung và nhỏ ở khắp nước. Công nghệ thông tin, kỹ thuật số, tự động hóa là trọng tâm của thời đại sắp tới làm thay đổi phương thức lao động và có thể làm nhiều người thất nghiệp. Thêm vào đó, đại dịch sẽ làm tăng thành phần yếu thế trong xã hội. Nhà nước sẽ phải quan tâm đến việc bảo đảm năng lực tối thiểu về kỹ thuật số cho mọi người dân, tiến hành các biện pháp chia sẻ công việc, và bảo đảm thu nhập cơ bản cho tầng lớp khó khăn.

Đổi mới sáng tạo là một điểm nhấn trong dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đổi mới sáng tạo trên cơ sở phải sáng tạo ra các giá trị mới trên tất cả các lĩnh vực, trở thành tư duy của một thời đại mới, phương thức của một thời đại mới. Ở góc nhìn của GS, nếu cần chỉ ra: "những việc cần làm ngay", những lĩnh vực cần đổi mới sáng tạo ngay, thì đó là gì?

Để thực hiện phương châm "Đổi mới, sáng tạo", việc cần làm đầu tiên là đưa ra chiến lược và chương trình hành động cụ thể, có mục tiêu trung và dài hạn, chứ không nên chỉ hô hào. Một số nội dung bao gồm trong chiến lược và chương trình hành động ấy có thể kể ra như sau. Thứ nhất, tăng ngân sách và khuyến khích doanh nghiệp chi tiêu nhiều hơn cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). Hiện nay (theo tư liệu năm 2017) cả Chính phủ và doanh nghiệp chi tiêu cho R&D chỉ bằng 0,5% tổng sản phẩm trong nước (GDP). Mức này rất thấp, chỉ bằng Hàn Quốc đầu thập niên 1970 và Trung Quốc gần 40 năm trước. Phải cố gắng tăng tỷ lệ lên 1% GDP hoặc cao hơn. Về chi tiêu cho R&D của Chính phủ cũng cần xem xét việc cải cách, tránh "xin cho" để ngân sách nhà nước được sử dụng có hiệu quả.

Thứ hai, sớm ban hành các luật khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn cho R&D, khuyến khích công ty có vốn nước ngoài mở các cơ sở R&D tại Việt Nam. Thứ ba, hiện nay ở nước ngoài có rất nhiều nhà khoa học người Việt Nam làm việc ở các đại học, các viện nghiên cứu, kể cả một số rất đông người đang nghiên cứu hậu tiến sĩ (postdoc). Nên làm ngay việc liên kết họ với các cơ sở nghiên cứu trong nước. Thứ tư, cần cải thiện thủ tục hành chính hoặc nghiên cứu các biện pháp để những ý tưởng đổi mới, sáng tạo của cá nhân, của doanh nghiệp được chuyển thành sản phẩm, tránh tình trạng những ý tưởng đó được đem ra nước ngoài thực hiện chỉ vì thủ tục, cơ chế trong nước quá phức tạp. Thứ năm, Chính phủ nên định ra một ngày trong năm làm Ngày biểu dương đổi mới sáng tạo, trong ngày đó tổ chức hội thảo về nhũng bài học từ thực tiễn trong năm qua và biểu dương những cá nhân, những doanh nghiệp có thành tích xuất sắc trong đổi mới, sáng tạo.

GS đã chỉ ra nguy cơ "Việt Nam chưa giàu đã già, và chuyển qua thời đại hậu công nghiệp quá sớm". Là người chứng kiến sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản trong thập niên 60-70 của thế kỷ trước, theo GS, Việt Nam cần học bài học gì từ quá trình công nghiệp hóa của Nhật Bản?

Việt Nam đang ở giai đoạn dân số vàng, sau đó sẽ bước vào giai đoạn lão hóa. Ở giai đoạn này, không phát triển nhanh và bền vững để đạt mức thu nhập cao trước khi chuyển sang giai đoạn lão hóa thì sẽ đối mặt trực diện nguy cơ "chưa giàu đã già". Cốt lõi của chiến lược phát triển trong giai đoạn dân số vàng là công nghiệp hóa. So với nông nghiệp và dịch vụ, công nghiệp có phạm vi rộng và dễ áp dụng công nghệ để tăng năng suất lao động cao nên dễ trở thành đầu tàu phát triển. Trong khi còn ở giai đoạn thấp (phản ánh trên tỷ lệ giá trị gia tăng của công nghiệp trên GDP) mà không tạo những điều kiện để đẩy mạnh công nghiệp hóa lên cao hơn thì lao động dư thừa vẫn tồn tại ở khu vực nông nghiệp hoặc chuyển sang khu vực dịch vụ với năng suất lao động thấp. Hậu quả là kinh tế tăng trưởng thấp, đưa đến bẫy thu nhập trung bình.

Nhật Bản từ giữa thập niên 1950 đến giữa thập niên 1970 là giai đoạn phát triển thần kỳ. Bài học từ kinh nghiệm Nhật Bản tóm lại một câu thì có thể nói như sau: nhà nước phải kiến tạo môi trường đầu tư thuận lợi để doanh nghiệp tư nhân tích cực cách tân công nghệ, đầu tư sản xuất theo tín hiệu của thị trường trong và ngoài nước.

Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư!