Đột phá bằng hàm lượng giá trị gia tăng
Nhiều chuyên gia kinh tế lạc quan rằng, những căng thẳng leo thang trong cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung sẽ tạo cơ hội tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam, ông có nghĩ thế không?
Sẽ nhiều thách thức, cơ hội theo tôi cũng có và có nhiều, nhưng mình tận dụng được hay không và họ có chọn mình hay không mới là điều đáng nói.
Hiện Việt Nam đang nằm trong số những nước xuất siêu lớn nhất vào Mỹ, theo ông đây là do lợi thế cạnh tranh của hàng Việt Nam hay do thị trường họ đã ưu ái doanh nghiệp mình?
Đó là do lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước và sự bổ sung giữa hai nền kinh tế, hai thị trường. Nhưng dù mình đứng thứ năm, thứ sáu trong các nước xuất siêu vào Mỹ, thì vẫn rất nhỏ vì quốc gia trên mình đã là 60 tỷ và Trung Quốc cả 500 tỷ. Quanh sự kiện Mỹ áp thuế vào Trung Quốc, có mấy câu chuyện thế này: Thứ nhất, thế giới bất ổn, sẽ tác động đến ta và ta phải đề phòng; Thứ hai, đương nhiên, ta có những mặt hàng song trùng và có lợi thế; Thứ ba, ta không thể chỉ vươn lên thuần túy bằng giá, mà quan trọng hơn là phải bằng giá trị. Cũng chưa có kết luận, nhưng trong tám tháng đầu năm nay xuất khẩu của ta sang Mỹ nhìn chung tăng, vậy các nhà kinh tế cần xem xét, cái tăng đó là do sức cạnh tranh của hàng hóa mình mạnh hơn, nhu cầu của thị trường Mỹ cần hàng hóa mình lớn hơn hay do chiến tranh thương mại mà có. Nhìn rộng ra hàng Việt mới có lợi thế về giá cả, cần phải tạo thêm hai yếu tố là chất lượng và hàm lượng giá trị gia tăng để nhân đà này tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Tận dụng cơ hội do căng thẳng thương mại Mỹ - Trung tạo nên là đúng, tuy nhiên lâu dài vẫn là chất lượng và giá trị gia tăng của hàng hóa để tạo sức cạnh tranh cho chuỗi cung ứng toàn cầu. Ta cũng phải uyển chuyển, để không nên quá phụ thuộc vào một nền kinh tế, một thị trường nào đó. Trung Quốc là thị trường lớn, nguồn cung lớn, ta không thể không tranh thủ. Nhu cầu đa dạng hóa không chỉ phụ thuộc vào một hai thị trường và luôn phải tuân thủ theo cơ chế thị trường...
Nhưng thực tế, có vẻ một bộ phận doanh nghiệp của ta vẫn chưa bỏ được tâm lý ăn xổi, chỉ xoay quanh với cái lợi trước mắt mà thiếu định hướng căn cơ, lâu dài, thưa ông?
Tôi thì không thích nói tâm lý ăn xổi, bởi ai cũng cần phải tồn tại đã rồi mới tính phát triển. Mặt khác, cũng phải hiểu thực trạng kinh tế ta, đi lên từ nhỏ lẻ, sẽ phải quan tâm ngay lợi ích trước mắt. Tôi chỉ nghĩ có lý do khi đất nước chuyển từ nền kinh tế du kích thời chiến tranh sang kinh tế thị trường, nhiều thói quen cũ chưa bỏ được. Nhưng sau hơn 30 năm đổi mới và đặc biệt hơn 10 năm qua, nước mình đã hội nhập sâu rộng, hình thành những tập đoàn kinh tế lớn, nhất là những tập đoàn tư nhân hay cổ phần hóa, họ có vốn lớn, động lực lớn, họ cũng có chiến lược đầu tư dài hạn, bài bản, cần khuyến khích họ làm dài hạn. Mặt khác, Nhà nước ta có những chính sách ưu đãi chung, phải định hướng về lâu dài, kéo được các công ty, tập đoàn lớn, nhất là thuộc khu vực tư nhân, cổ phần hóa vào hỗ trợ, tham gia đóng góp ở cuộc chơi này. Điều đó sẽ xóa bỏ dần đi tâm lý ăn xổi của những doanh nghiệp nhỏ, nguồn vốn nhỏ, chỉ mong thu vén đắp đổi qua ngày.
Tức là doanh nghiệp mình đã đủ nội lực để vươn ra biển lớn, thưa ông?
Doanh nghiệp mình đã bắt đầu vượt qua giai đoạn có gì bán đấy (ngắn hạn), sang giai đoạn chủ động gia nhập thị trường bên ngoài, tức là họ cần gì thì mình bán đấy. Dẫu rằng thực tế cần thêm nhiều giải pháp, hướng đi nữa để hàng hóa của mình, nhất là nông sản, bớt dần phụ thuộc vào thị trường gần, biên giới gần, để hướng tới thị trường xa, biên giới xa hơn, khó tính hơn... Ở đây có câu chuyện chính sách, sao cho hàng hóa mình đáp ứng được các thị trường xa gần, thì mới đa dạng hóa được. Thí dụ, hàng hóa như nông sản phải bảo quản được đủ thời gian thì mới có thể đưa đi xa được, chưa kể các tiêu chuẩn khác. Mặt khác, để tạo đột phá, để làm được, thì còn câu chuyện thương hiệu và xây dựng thương hiệu. Kế đó và đặc biệt quan trọng, là làm sao định vị được Việt Nam và các thương hiệu Việt Nam. Chúng ta hay nói, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo, cà-phê hàng đầu thế giới, nhưng một thương hiệu mạnh cho gạo và cà-phê Việt Nam là gì, thì sẽ khó trả lời. Trong khi người Thái Lan lại làm rất tốt điều này. Ở Việt Nam, nhiều người tiêu dùng vẫn còn thích và ăn gạo Thái Lan chứng tỏ nông sản của họ có sức cạnh tranh lớn...
Vậy giữa bối cảnh cơ hội đang sẵn có, doanh nghiệp Việt sẽ lấy đâu làm thế mạnh để định vị giá trị của mình và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu như ông nói?
Lựa chọn cái gì là thế mạnh của mình và khả năng tạo ra hàm lượng giá trị gia tăng cao để đột phá. Giống như Singapore, họ không có lợi thế về không gian vật chất nên đã chọn dịch vụ, tài chính và chất xám, họ đầu tư vào con người, tận dụng chất xám con người ở khắp nơi trên thế giới làm việc cho họ. Hay Ấn Độ cũng là một quốc gia rất mạnh về công nghệ. Có quan niệm lao động ngành công nghệ cao của Ấn Độ làm thuê nhiều cho Mỹ, nhưng dù chỉ là làm thuê thì lao động Ấn Độ đã tham gia chặt vào chuỗi giá trị của Mỹ, để bây giờ Mỹ phải phụ thuộc vào nguồn nhân lực này, không thể bỏ được. Căng thẳng thương mại Mỹ - Trung có thể sẽ tạo ra một trật tự kinh tế thế giới mới, rồi đây nhiều hiệp định thương mại sẽ phải có điều chỉnh, sẽ có xáo trộn, có sắp xếp, xóc lên xóc xuống sẽ có kẽ hở, mình có tận dụng được những kẽ hở đó, lấp vào được những khoảng trống đó hay không cũng phụ thuộc vào chủ quan của chính mình. Doanh nghiệp Việt, thí dụ như Vinfast, tôi rất ủng hộ và tự hào, nhưng tôi thấy họ cũng chưa thể tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu, trở thành một mắt xích không thể gạt ra ngoài của chuỗi cung ứng đó. Có chỗ đứng trong chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu, mới định vị được sức cạnh tranh lâu dài...
Chủ động thông tin chính là lợi thế
Theo ông ở tầm vĩ mô, chúng ta đã có đủ những chuyển động tích cực về chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu như ông nói?
Chính phủ đã có những chính sách rất quyết liệt, kịp thời đáp ứng nhu cầu của thực tế, hạn chế những rủi ro thí dụ như về gian lận xuất xứ hàng hóa, một kẽ hở mà doanh nghiệp có thể lợi dụng và gây ra những hậu quả xấu. Tuy nhiên, với kinh nghiệm thực tiễn mà tôi đúc kết được, trong câu chuyện kinh tế và chính trị đối ngoại ngày nay, truyền thông là rất quan trọng, để xã hội đi cùng với nhà nước. Vì vậy trước khi nói chuyện về chính sách, cần nhấn mạnh câu chuyện truyền thông, đặc biệt trong thời đại số, thời đại internet và mạng xã hội. Muốn một chính sách được đón nhận, để tránh các thông tin trái chiều, không mong muốn, cách tốt nhất là phải cung cấp thông tin, rất nhiều thông tin đáng tin cậy. Thứ hai là xử lý khi có khủng hoảng thông tin. Chạy theo thông tin trong điều kiện mạng xã hội phát triển là thất sách. Do đó, có khủng hoảng là cần phải có thông tin, cần xử lý ngay và xử lý đúng. Nội hàm thông tin xác thực là hết sức quan trọng, tránh chỉ tuyên truyền chủ trương, chính sách một chiều mà thiếu đi hàm lượng thông tin, dân giờ người ta không tin đâu. Chưa kể, ngập ngừng, chậm chễ về thông tin, thậm chí sẽ gây ra những nghi ngờ, dẫn đến khủng hoảng thông tin với những dư chấn khó định lượng. Thí dụ ở ta, xa hơn là khủng hoảng về ô nhiễm biển, mà gần đây thì vụ cháy Nhà máy bóng đèn phích nước Rạng Đông, truyền thông đã rất chập chững và không trúng. Chập chững là thông tin mỗi người một kiểu, không biết tin thế nào. Không trúng là trước hết cần bảo vệ sinh mạng và đời sống người dân, thì cái đó không thấy rõ. Cần phải xác định lại cả về nhận thức và quy trình sao cho người dân thấy rõ là mọi ưu tiên dành trước hết cho dân, cùng với những thông tin chuẩn xác, kịp thời, nhanh chóng. Người dân tin ở Nhà nước và luôn mong được cung cấp những thông tin kịp thời, chính xác tại mỗi thời điểm. Mạng xã hội và các kênh thông tin ngày nay dễ làm cho người dân bất an, hoang mang. Chỉ có các kênh thông tin của Nhà nước là người dân tin cậy, thì hơn lúc nào hết, ta càng thấy rõ hơn trách nhiệm đó trước người dân. Chủ động về thông tin, minh bạch thông tin, nhất là chủ động thông tin khi có vấn đề sẽ luôn tối quan trọng và giúp đưa ra những quyết định tốt nhất cho lựa chọn của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và dư luận xã hội.
Chủ động được thông tin sẽ luôn tạo nên lợi thế trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, vậy ông có thể chia sẻ một vài dấu ấn đáng nhớ và hữu ích trong nhiệm kỳ Đại sứ ở Mỹ?
Là Đại sứ vào thời điểm ứng viên Tổng thống Mỹ Donald Trump đắc cử, ai cũng vậy, có hai câu hỏi phải giải đáp: Chính sách đối ngoại của Mỹ và quan hệ Việt - Mỹ sắp tới thế nào. Trong bối cảnh cuộc bầu cử lần này, đã có rất nhiều cái khó lường. Vậy nên, để hiểu chính quyền mới, không ai khác chính là người vừa đắc cử Tổng thống, ông Donald Trump. Chúng ta coi trọng quan hệ và muốn rằng, dù là ai, chúng ta luôn muốn thúc đẩy hơn nữa quan hệ hai nước, trên cơ sở tôn trọng, hiểu biết và cùng phấn đấu về những vấn đề quan tâm chung, cả song phương và đa phương. Và sau đó, thực tế như mọi người đã biết, ngay trong những tháng đầu tiên cầm quyền, Thủ tướng ta là lãnh đạo đầu tiên ở Đông-Nam Á đã thăm Mỹ và Tổng thống Mỹ đã đến Việt Nam vừa dự APEC vừa thăm cấp nhà nước. Nếu không tiếp cận được sớm, khi họ còn đang cân nhắc thì sẽ rất khó để họ hiểu mình, đừng đợi khi chính sách của họ đã định hình rồi thì sẽ khó bổ sung, làm được gì đó cho mình nữa...
Trân trọng cảm ơn Đại sứ!