Bảo đảm cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục phổ thông mới

Cùng với đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất trường, lớp được coi là một trong hai yếu tố quyết định đến chất lượng dạy và học. Vì vậy, những năm qua, ngành giáo dục cùng các địa phương chuẩn bị kỹ lưỡng điều kiện về cơ sở vật chất để triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới hiệu quả và thực hiện tốt việc sắp xếp, cơ cấu hợp lý các cơ sở giáo dục.

Khu phòng học xây dựng kiên cố của Trường Phổ thông dân tộc bán trú THCS Cao Phạ, Mù Cang Chải (Yên Bái).
Khu phòng học xây dựng kiên cố của Trường Phổ thông dân tộc bán trú THCS Cao Phạ, Mù Cang Chải (Yên Bái).

Đi trước một bước
 
 Trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) tiểu học và THCS La Pán Tẩn, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái nằm giữa những thửa ruộng bậc thang nhấp nhô. Tuy nhiên, bước vào trường là không gian thoáng, rộng với những dãy phòng học, phòng bộ môn, khu bán trú được xây dựng kiên cố. Thầy giáo Nông Đức Viễn, Hiệu trưởng nhà trường cho biết, những năm gần đây từ nguồn ngân sách, chương trình dự án, huy động xã hội hóa, địa phương đã đầu tư cơ sở vật chất trường, lớp học, đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới giáo dục. Năm học 2020 - 2021, bậc tiểu học của trường có 20 lớp với 677 học sinh tiểu học đều được bố trí học đầy đủ hai buổi/ngày. Trong đó có năm lớp 1 bắt đầu thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới được quan tâm bố trí phòng học, thiết bị dạy học bảo đảm tốt. Bậc THCS, trường có 11 lớp với 428 học sinh đều được bố trí phòng học bảo đảm chất lượng, đều được học tiếng Anh và tin học. Ngoài ra, trường có một số phòng học bộ môn, phòng máy tính gồm 10 máy, máy chiếu và mỗi khối lớp học có một bộ thiết bị dạy học cơ bản đáp ứng theo yêu cầu.
 
 Theo Sở Giáo dục và Đào tạo (GD và ĐT) Yên Bái, chuẩn bị triển khai chương trình, sách giáo khoa mới, tỉnh Yên Bái đã có văn bản chỉ đạo lồng ghép sử dụng các nguồn kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị dạy học. Đối với lớp 1 năm học 2020-2021 được ưu tiên bố trí đủ phòng học hai buổi/ngày cho 579 lớp 1. Phó Giám đốc Sở GD và ĐT Yên Bái, Lê Minh Đức cho biết, năm học 2020-2021 toàn tỉnh có 444 trường, với gần 220 nghìn học sinh. Đã có 239 trường đạt chuẩn quốc gia (chiếm tỷ lệ 53,8%); 100% lớp 1 học hai buổi/ngày.
 
 Tại tỉnh Điện Biên, thời điểm tháng 3-2019 trước khi bắt đầu triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới vẫn còn hơn 30% phòng học bán kiên cố và tạm chưa đáp ứng được yêu cầu. Điển hình như tại huyện Mường Nhé có 52 phòng học, huyện Nậm Pồ 69 phòng học, huyện Tủa Chùa hơn 20 phòng học tạm và mượn… Tuy nhiên, theo sự chỉ đạo từ Sở GD và ĐT Điện Biên cùng sự chủ động, tích cực của các cán bộ quản lý, các thầy, cô giáo đã kêu gọi, khớp nối nhiều nguồn kinh phí, nguồn tài trợ đầu tư xây dựng trường, lớp học kiên cố. Ngoài việc lập kế hoạch ưu tiên lựa chọn địa bàn đầu tư phòng học mới từ nguồn ngân sách thì việc vận động, kêu gọi xã hội hóa chung tay nâng cao chất lượng cơ sở vật chất trường, lớp học được thực hiện khá hiệu quả. Trong đó, phòng GD và ĐT các huyện: Nậm Pồ, Tủa Chùa, Mường Ảng… mỗi năm đã kêu gọi được hàng chục tỷ đồng xây dựng thêm nhiều phòng học mới. Điều này không chỉ đáp ứng yêu cầu dạy học theo chương trình giáo dục phổ thông mới, mà còn tạo niềm tin với nhân dân về cách làm hiệu quả, hợp chủ trương. Đến hết năm 2020, nhiều huyện của tỉnh Điện Biên giảm đáng kể phòng học tạm, như huyện Nậm Pồ giảm được 64 phòng; huyện Mường Nhé giảm được 15 phòng, huyện Tủa Chùa giảm được 10 phòng.
 
 Theo Bộ trưởng GD và ĐT Phùng Xuân Nhạ, để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, Bộ đã chủ trì phối hợp các bộ, ngành liên quan xây dựng các chương trình, đề án và yêu cầu các địa phương đánh giá tình hình, rà soát thực trạng, nhu cầu đầu tư cơ sở vật chất trường, lớp học. Mặt khác, tham mưu Chính phủ cân đối, bố trí các nguồn vốn để hỗ trợ các địa phương có điều kiện khó khăn thực hiện đầu tư cơ sở vật chất, trường, lớp học như: Nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, nguồn vốn hỗ trợ chương trình mục tiêu giáo dục vùng núi, vùng dân tộc thiểu số… Bộ GD và ĐT ban hành đồng bộ các quy định tiêu chuẩn về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ở mức tối thiểu để các địa phương thực hiện chương trình mới theo lộ trình. Cục trưởng Cơ sở vật chất (Bộ GD và ĐT) Phạm Hùng Anh cho biết, giai đoạn 2016 - 2020 đã có 41 nghìn phòng học tranh, tre, nứa, lá được xóa bỏ, xây dựng mới, trong đó có 10 nghìn phòng được xây dựng từ nguồn trái phiếu Chính phủ, 31 nghìn phòng từ nguồn huy động của các địa phương… Ngoài ra, với định hướng chương trình giáo dục phổ thông mới, bậc tiểu học sẽ học hai buổi/ngày, cho nên ngoài việc xóa bỏ, thay thế phòng học tạm, cả nước còn bổ sung xây mới được 32 nghìn phòng. Vì vậy tỷ lệ phòng học kiên cố được nâng lên đáng kể.
 
 Cơ cấu, sắp xếp hợp lý
 
 Việc chuẩn bị cơ sở vật chất trường, lớp học được ngành giáo dục triển khai gắn liền với các nghị quyết của Ban Chấp hành T.Ư khóa XII: Nghị quyết số 18-NQ/TW một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
 
 Theo Cục trưởng Cơ sở vật chất Phạm Hùng Anh, trước đây với phương châm “dân ở đâu, trường, lớp ở đó” cho nên mạng lưới trường, lớp khá phân tán, nhiều điểm lẻ, trường quy mô nhỏ. Khi kinh tế - xã hội phát triển, giao thông thuận lợi thì mạng lưới trường, lớp phân tán sẽ gây khó khăn trong nâng cao chất lượng giáo dục. Thực hiện Nghị quyết 18-NQ/TW và Nghị quyết 19-NQ/TW, ngành Giáo dục đã tích cực rà soát, sắp xếp, giảm được khoảng 2.100 cơ sở giáo dục, tương đương tỷ lệ 6,5%/tổng số trường học cả nước (không tính các thành phố lớn thì tỷ lệ các tỉnh giảm khoảng 10%). Ngoài ra, đã rà soát, sắp xếp giảm 2.400 điểm trường lẻ trong tổng số gần 35 nghìn điểm lẻ (giảm 7,5%). Việc sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục tạo nên một diện mạo mới, tinh gọn, hiệu quả trong nâng cao chất lượng giáo dục. Tình trạng trường, lớp có quy mô nhỏ, chất lượng chưa cao đã dần được khắc phục. Hàng nghìn điểm trường lẻ được sáp nhập thành hệ thống các trường liên cấp có quy mô lớn hơn. Nhiều địa phương thực hiện hiệu quả việc rà soát, sắp xếp lại quy mô trường học. Điển hình như tỉnh Yên Bái giai đoạn 2016 - 2020 hoàn thành đề án sắp xếp quy mô, mạng lưới trường, lớp đối với giáo dục mầm non và phổ thông, giảm được 130 trường; giảm 478 điểm trường. Trong đó riêng năm học 2019 - 2020 vừa qua, toàn tỉnh rà soát, sắp xếp, giảm được hai trường và 98 điểm trường.
 
 Giai đoạn 2021 - 2025, Bộ GD và ĐT đang phối hợp các bộ, ngành tham mưu Chính phủ; đồng thời cùng các địa phương đặt ra mục tiêu cụ thể về cơ sở vật chất trường, lớp. Trong đó, phấn đấu đưa tỷ lệ kiên cố hóa trường, lớp học từ 76% hiện nay lên 85%, tương đương xóa bỏ khoảng 50 nghìn phòng học tranh, tre, nứa, lá, phòng học tạm, cấp bốn xuống cấp. Ngoài ra, triển khai xây dựng thêm khoảng 20 nghìn phòng học mới để đủ một phòng/lớp học đối với mầm non và tiểu học... Theo Bộ trưởng GD và ĐT Phùng Xuân Nhạ, thực hiện tinh thần Nghị quyết 19-NQ/TW, mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập đã có những chuyển biến tích cực. Số lượng điểm trường lẻ, các cơ sở giáo dục quy mô nhỏ giảm, hình thành các cơ sở giáo dục quy mô lớn hơn hoặc các trường liên cấp. Điều này đã giúp nâng cao chất lượng giáo dục, đầu tư tập trung, tránh dàn trải, giảm đầu mối các đơn vị sự nghiệp. Bộ GD và ĐT sẽ tiếp tục hoàn thiện các quy định về cơ sở vật chất trường, lớp học đồng thời tham mưu Chính phủ, Quốc hội ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ các địa phương khó khăn nhằm tăng cường cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới.