Ngăn chặn tín dụng đen

Trước đây, tội phạm hoạt động tín dụng đen (TDĐ) chủ yếu cho vay lãi nặng, đòi nợ thuê với số ít, thực hiện bằng các phương thức truyền thống, thủ công thì gần đây có xu hướng phức tạp hơn. "Cơn bão" TDĐ càn quét không chỉ ở thành phố mà còn len lỏi khắp các miền quê, cả vùng sâu, vùng xa, gây lo lắng, bức xúc trong dư luận và bất ổn về an ninh trật tự. Mặc dù nhiều băng nhóm, tổ chức hoạt động TDĐ liên tiếp bị triệt phá nhưng vẫn còn không ít kẽ hở tội phạm lợi dụng cần kịp thời bịt kín để "hạ nhiệt" hiệu quả hơn.

Tang vật vụ án triệt phá băng nhóm tín dụng đen ở Thanh Hóa. Ảnh: THÁI THANH
Tang vật vụ án triệt phá băng nhóm tín dụng đen ở Thanh Hóa. Ảnh: THÁI THANH

Nhiều thủ đoạn mới, tinh vi

Tội phạm TDĐ dùng nhiều thủ đoạn mới, tinh vi hơn để tiếp thị cho vay, đe dọa khi đòi nợ. Triệt để sử dụng công nghệ cao, núp bóng các doanh nghiệp có chức năng cho vay tài chính, dịch vụ đòi nợ, kinh doanh cầm đồ, các đối tượng tạo vỏ bọc đối phó với cơ quan chức năng để tổ chức các hoạt động cho vay không thế chấp, huy động vốn, kinh doanh tài chính, góp vốn, góp tài sản kinh doanh với lãi suất rất cao (từ 100% đến 300%, thậm chí lên đến 700%/năm đối với khoản tiền ở thời điểm vay) nhằm thu lợi bất chính. Không chỉ phát, dán tờ rơi khắp nơi, một số đối tượng còn tổ chức hoạt động TDĐ qua mạng internet dưới dạng cho vay trực tuyến, vay ngang hàng, thông qua các trang web, mạng xã hội, thuê bao điện thoại không chính chủ... đăng tin, gửi tin nhắn quảng cáo vay tiền không cần gặp mặt, thế chấp, cấp tiền ngay, thủ tục đơn giản (chỉ cần CMND hoặc thông tin cá nhân).

Thủ tục vay ngân hàng thường chặt chẽ hơn vay TDĐ nên đánh trúng tâm lý nhiều người muốn vay. Hiện cả nước có gần 28 nghìn cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ, trong đó 640 cơ sở không có giấy phép kinh doanh hoạt động TDĐ, 4.048 cơ sở có dấu hiệu cho vay tín chấp trái phép, 77 cơ sở kinh doanh dịch vụ đòi nợ; 1.496 cơ sở kinh doanh tài chính trái phép, 4.600 cá nhân cho vay lãi nặng (họ, biêu, phường). Nhiều người chủ quan nghĩ rằng số tiền vay bằng lãi ngày, lãi tuần ít, có thể trả được, nhưng khi lãi cộng dồn nợ gốc thì tăng lên gấp bội, nếu trả không đúng hẹn bị chủ nợ trực tiếp hoặc thuê đầu gấu "khủng bố tinh thần".

Đáng chú ý, một hình thức cho vay mới xuất hiện và phát triển mạnh là P2P Lending bởi lợi thế so với dịch vụ ngân hàng truyền thống như thủ tục vay vốn đơn giản, dễ tiếp cận (nhất là các cá nhân có thu nhập thấp, khó chứng minh tài chính với ngân hàng, các hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ), có thể giảm chi phí và tăng lợi nhuận cho bên vay và cho vay, thuận tiện theo dõi và quản lý khoản lãi, khoản vay thông qua tài khoản trên tiện ích công nghệ. Qua rà soát hiện cả nước có hơn 40 công ty hoạt động P2P Lending, tập trung ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh thu hút tiền của các nhà đầu tư, sau đó kết nối cho các doanh nghiệp nhỏ, cá nhân vay tiền nóng, vay tiền nhanh và thế chấp, vay tín chấp, trả góp hàng tháng, tiết kiệm nhóm với cam kết lợi nhuận cao qua trang web hoặc nền tảng ứng dụng. Ngoài mức lãi suất 10 - 20% năm (cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng), người vay còn phải chịu thêm một số loại phí từ 1 đến 5%/năm, có công ty sau ba năm hoạt động có tới 14 nghìn tổ chức và cá nhân tham gia cho vay trên sàn tài chính với hơn 1,5 triệu khách hàng vay. Do không được coi là hoạt động tín dụng thông thường, nhận tiền đầu tư và cho vay không qua trung gian tài chính nên khi xảy ra rủi ro các bên liên quan không chịu trách nhiệm hoặc không được giải quyết đền bù như thường lệ. Trong khi đó, hàng loạt rủi ro có thể phát sinh như bên vay không trả được nợ hoặc công ty P2P Lending dùng tiền đầu tư sai mục đích, quản lý kém hoặc phá sản dẫn đến khả năng mất một phần vốn của nhà đầu tư; nguy cơ bị tấn công, sao chép dữ liệu, chiếm quyền điều hành; đối tượng tham gia sàn giao dịch ẩn danh, mạo danh, cố tình lừa đảo hoặc cho vay bằng tài sản ảo, tiền ảo, tiền kỹ thuật số nên việc giám sát phòng, chống rửa tiền, quản lý ngoại hối, thu thuế khó khăn. Vì thế, cần khuôn khổ pháp lý để quản lý, đưa hoạt động P2P Lending vào kinh doanh có điều kiện.

Lấp đầy những "khoảng trống"

Trong sáu tháng đầu năm, cả nước xảy ra hơn 1.174 vụ phạm pháp liên quan đến hoạt động TDĐ, lực lượng Cảnh sát Hình sự điều tra, xử lý hình sự 390 vụ, khởi tố, bắt giữ 1.084 đối tượng phạm tội. Điển hình Cục Cảnh sát Hình sự phối hợp công an tỉnh Thanh Hóa triệt phá đường dây TDĐ núp dưới bóng công ty tài chính Nam Long với 26 chi nhánh ở 63 tỉnh, thành; Công an TP Hà Nội triệt phá băng nhóm hoạt động TDĐ núp bóng công ty Hải Linh, bắt 11 đối tượng, thu giữ hơn 11 tỷ đồng.

Nhằm lách luật và đối phó với cơ quan công an, các đối tượng ngụy trang hành vi cho vay nặng lãi bằng các hợp đồng biến tướng như không ghi hoặc ghi lãi suất thấp hơn nhiều so với thực tế trong hợp đồng hay theo thỏa thuận trong một loại giấy tờ khác như giấy vay tiền, giấy viết tay để có thể dễ dàng tiêu hủy, thay đổi; yêu cầu bị hại viết giấy bán tài sản có công chứng sau đó thuê lại chính tài sản mình đã bán để làm bằng chứng tố cáo với cơ quan công an là con nợ chiếm đoạt tài sản nếu không trả nợ đúng hẹn nên xác minh gặp nhiều khó khăn. Chưa kể vay nợ diễn ra trong thời gian dài, qua nhiều lần viết đi viết lại giấy vay nợ, thay đổi lãi suất, không phân định rõ giữa giao dịch dân sự với hành vi hình sự khiến việc đánh giá chứng cứ, định tội của các cơ quan tố tụng không thống nhất, điều tra bị kéo dài, không đủ cơ sở để khởi tố, xử lý được đối tượng.

Các văn bản hướng dẫn dưới luật chưa hoàn thiện cũng tạo kẽ hở để các đối tượng lợi dụng hoạt động. Đối với hành vi cho vay lãi nặng chưa đến mức xử lý hình sự nhưng không cầm cố tài sản chưa quy định mức xử phạt hành chính nên không có cơ sở xử phạt, nếu có cầm cố thì mức xử phạt theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP chưa đủ sức răn đe (chỉ từ 5 triệu đến 15 triệu đồng). Mặt khác, theo khoản 1, Điều 201 Bộ luật Hình sự, người nào trong giao dịch dân sự cho vay với lãi suất gấp năm lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự (20%), thu lời bất chính từ 30 triệu đến dưới 100 triệu đồng, hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt từ 50 đến 200 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm. Mức hình phạt này thuộc loại ít tội ít nghiêm trọng, nên khó áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam theo quy định của Luật Tố tụng hình sự để điều tra, mở rộng, trong khi thực tế hoạt động này thường do các băng nhóm tội phạm thực hiện. Và hiện chưa có hướng dẫn cụ thể nên khó khăn trong việc tính lợi nhuận bất hợp pháp mà đối tượng hoạt động TDĐ hưởng lợi cấu thành hành vi cho vay lãi nặng: là khoảng chênh lệch 1% hay cả 101%, thu lời 30 triệu đồng trở lên của một hay nhiều giao dịch cộng lại. Nghị định 96/2016/NĐ-CP quy định điều kiện về ANTT đối với một số ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện mới điều chỉnh kinh doanh cầm đồ, dịch vụ đòi nợ, chưa đề cập đến kinh doanh tài chính, hỗ trợ tài chính, cho vay không cầm cố tài sản, hoạt động kinh doanh vay ngang hàng, vay trực tuyến (P2P Lending- Fintech).

Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Chỉ thị số 12/CT-TTg về tăng cường phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi phạm luật liên quan đến hoạt động TDĐ. Để quản lý chặt chẽ và xử lý triệt để, cần sự vào cuộc đồng bộ, phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành, địa phương, trong đó lực lượng công an và ngành ngân hàng là nòng cốt. Bên cạnh đẩy mạnh điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, không thể xem nhẹ các giải pháp phòng ngừa như siết chặt việc cấp giấy chứng nhận và tăng cường quản lý, kiểm tra các cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ, đòi nợ; tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về cho vay trong các giao dịch dân sự, cảnh báo các phương thức, thủ đoạn cho vay lãi nặng, lừa đảo thông qua huy động vốn tự phát với lãi suất cao bất thường, hệ lụy từ TDĐ; bóc gỡ tờ rơi, biển quảng cáo, ngăn chặn các ứng dụng, tin nhắn, rao vặt quảng cáo, tiếp thị liên quan đến TDĐ; có các chính sách mở rộng, đa dạng các loại hình cho vay phủ khắp các vùng, miền với thủ tục nhanh gọn và thuận tiện đáp ứng nhu cầu vay vốn chính đáng, hợp pháp của người dân; rà soát các văn bản pháp luật liên quan đến công tác quản lý nhà nước và tội phạm, vi phạm pháp luật về TDĐ còn vướng mắc, bất cập để kịp thời sửa đổi, bổ sung phù hợp tình hình thực tế.