Ứng xử bình đẳng với văn hóa các dân tộc thiểu số

Trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền nam, tháng 4-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt…” và Người khẳng định: “Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta”. Đó là cơ sở cho chúng ta xác định xây dựng đất nước ngày càng văn minh, hiện đại, cùng phát triển trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau là khát vọng chung của 54 dân tộc anh em trong một đại gia đình. Cũng vì thế, bảo đảm ứng xử công bằng, khoa học, trên tinh thần tôn trọng các giá trị văn hóa của các dân tộc là một yêu cầu hết sức cần thiết trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Kỳ 1: Tôn trọng sự khác biệt

Lịch sử nhân loại đã cho thấy, không có nền văn hóa lớn và nền văn hóa nhỏ, chỉ có các nền văn hóa khác nhau. Cũng không chủ thể văn hóa nào có thể (có quyền) áp đặt các giá trị văn hóa của cộng đồng mình lên một chủ thể văn hóa khác dưới bất kỳ hình thức nào. Trong thế giới văn minh, đó là nguyên tắc phải được nhấn mạnh, được nhận thức sâu sắc và đầy đủ. Và phải nhấn mạnh rằng sự khác biệt trong văn hóa giữa các dân tộc anh em đã tạo nên các giá trị văn hóa mang tính bản sắc của cả dân tộc Việt Nam. Tiếp cận từ bất cứ góc độ nào thì bản sắc vẫn là các sáng tạo văn hóa mang nét độc đáo riêng, vừa định danh, vừa khẳng định lịch sử sinh tồn, phát triển của mỗi tộc người trong không gian văn hóa riêng. Và sự góp mặt của các tộc người trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam đã tạo nên một đất nước có nền văn hóa thống nhất trong đa dạng với vô vàn giá trị vô cùng quý báu, hấp dẫn. Có thể nói, “tấm thổ cẩm Tổ quốc” là một bức tranh đa sắc và những nét hoa văn sinh động chính là văn hóa của các tộc người, các vùng miền. Nền văn hóa Việt Nam giàu có chính là “tấm căn cước” giới thiệu hình ảnh đất nước với cộng đồng văn hóa nhân loại. Vì thế, sự khác biệt và bản sắc văn hóa của mỗi tộc người đều phải được khẳng định, cần phải được ứng xử một cách bình đẳng trên tinh thần tôn trọng.

Xin được nêu những ý kiến nói trên như một cách tiếp nối bài viết gần đây của chúng tôi, với tựa đề “Cẩn trọng khi khai thác những yếu tố văn hóa truyền thống các dân tộc” (Báo Nhân Dân, ngày 29-4-2020). Trong bài viết đó, chúng tôi đã đề cập đến một hiện tượng rất đáng lên án, đó là việc một số cơ quan truyền thông, trang mạng xã hội sử dụng nhiều chiêu thức câu khách rẻ tiền trong khi khai thác yếu tố khác biệt của cộng đồng các dân tộc thiểu số để thể hiện một cách sai lệch về văn hóa của đồng bào trong các sản phẩm được họ coi là “quảng bá”, “nghệ thuật”. Dù biện minh như thế nào, đưa ra lời xin lỗi ra sao thì các nhà sản xuất nêu trên cũng đã vi phạm nghiêm trọng chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước. Sự thiếu ý thức của họ đã làm tổn thương sâu sắc đến một bộ phận đồng bào, và nguy hiểm hơn, đã tạo nên cái hố ngăn cách, làm xuất hiện lằn ranh chia rẽ, ảnh hưởng không nhỏ đến tinh thần đại đoàn kết dân tộc.

Đáng tiếc, vẫn có một số suy nghĩ chưa thấu đáo lên tiếng biện hộ thay cho các việc làm nêu trên, coi đó chỉ là sản phẩm mang tính chất giải trí thông thường. Tuy nhiên, cách biện hộ như vậy không thuyết phục. Bởi, khi sử dụng các chi tiết mang yếu tố khác biệt về nhân chủng, ngôn ngữ, trang phục, hành vi,… của một dân tộc thiểu số vào nhân vật để tạo tiếng cười, thì trong sâu xa, nhận thức của những người tạo nên các sản phẩm ấy đã in dấu ấn của quan niệm dân tộc hẹp hòi, ẩn chứa các so sánh mang tính định kiến, kỳ thị. Qua sản phẩm truyền thông, các nhà sản xuất đó đã hoàn toàn chủ động trong việc “dán nhãn” những thói hư tật xấu, những hành xử tầm thường và lố bịch, những lời nói thể hiện sự dốt nát, ngô nghê cho một bộ phận đồng bào thiểu số. Đó là việc làm còn thiếu tôn trọng, là hành xử còn thiếu văn minh và chuẩn mực, có thể gây hậu quả khó lường. Trước thực trạng đó, nhiều người trong các dân tộc thiểu số đã lên tiếng phản đối. Bạn Vàng Văn Lợi bày tỏ: “Dù sáng tạo là rất cần thiết, đặc biệt là trong truyền thông, nhưng nó vẫn cần trong khuôn khổ của đạo đức và pháp luật. Không thể hiểu nổi có những người học rộng, học sâu, được đào tạo ra để làm truyền thông lại dùng chính tri thức của mình để nghĩ ra mọi chiêu trò, kể cả làm sai lệnh sự thật, văn hóa… chỉ để đạt mục đích là quảng bá cho sản phẩm hoặc gây cười thì thật sự hèn hạ và đáng lên án”. Bạn Cầm Hoài Thu đặt câu hỏi: “Người cố tình nặn ra tiếng cười bằng việc bóp méo sự thật và làm tổn thương người khác liệu có “văn minh” hơn không?!”. Từ quan niệm coi truyền thông đại chúng là kênh tạo lập niềm tin bởi sự lặp đi lặp lại hình ảnh, ngôn ngữ, có sự tác động to lớn lên nhận thức, suy nghĩ của công chúng tiếp nhận, mọi ý kiến đều thống nhất cho rằng việc xây dựng các hình ảnh sai lệch, phô diễn định kiến tộc người thông qua truyền thông cần phải chấm dứt. Thậm chí, đã có ý kiến đề nghị cần có chế tài nghiêm khắc để xử lý các cơ quan, cá nhân sản xuất các chương trình phản cảm, lệch lạc. Như ông Naria Ya Duck (người dân tộc Chu Ru, nguyên đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII) đã nói: “Những người làm nên các sản phẩm bôi nhọ đồng bào phải chịu trách nhiệm với những việc làm lệch lạc của mình. Những lời xin lỗi chưa đủ, cần phải nhận những chế tài nghiêm khắc của pháp luật!”...

Mặt khác, các dân tộc thiểu số Việt Nam đã xây dựng nên nền văn hóa của mình trong quá trình sống giữa không gian sinh tồn riêng, và xem xét, đánh giá, hình thành quan niệm riêng về thế giới, xã hội con người, đồng thời hình thành cách ứng xử riêng với tự nhiên, xã hội, con người. Quá trình cư trú lâu đời giữa thượng du đại ngàn đã quy định việc hình thành nên hệ giá trị văn hóa của mỗi tộc người. Cụ thể hơn, cũng như cư dân ở đồng bằng làm lúa nước, cư dân duyên hải làm ngư nghiệp, các dân tộc anh em ở miền rừng núi cũng liên tục trả lời một cách có trách nhiệm với các câu hỏi về sự lựa chọn của mình bằng những đặc điểm, tập quán pháp riêng biệt. Những điều đó đã làm nên nét riêng, dấu ấn riêng, bản sắc riêng của mỗi tộc người. Tiếp cận hệ thống nhân sinh quan, thế giới quan của đồng bào bằng sự hiểu biết, thấu cảm sẽ ghi nhận được những giá trị cực kỳ quý giá. Còn nếu tiếp cận bằng cảm quan hời hợt sẽ chỉ thấy hiện tượng bên ngoài với các “khác biệt”, và thường thì định kiến, kỳ thị, lối nhìn áp đặt, cách làm sai,… cũng từ đây mà ra.

Ví như, nhiều người với nhận định chủ quan, phiến diện, đã phê phán tục “ăn trâu” của một số dân tộc bản địa ở Tây Nguyên. Họ quên rằng, nếu chỉ nhìn vào hiện tượng thì không thể biết tập tục hiến sinh lâu đời này gắn liền với những giá trị thiêng liêng, nhân văn. Thông điệp mà bà con muốn chuyển tới thần linh trong nghi lễ “ăn trâu” là gửi gắm khát vọng về mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, cầu mong sức khỏe, ý thức cố kết cộng đồng. Ví như, vì áp đặt chủ quan mà nhiều đặc trưng kiến trúc của đồng bào bị phá vỡ để thay thế bằng nhà “bê-tông đồng phục” như vô hồn, và nhiều bến nước với “giọt nước” thiêng liêng đầu nguồn trong lành đã bị chặn dòng. Cũng bởi khảo sát không thấu đáo mà nhiều nhà sinh hoạt cộng đồng được xây dựng hết sức tốn kém nhưng vắng bóng người dân đến sinh hoạt vì họ cảm thấy lạnh lẽo, xa lạ. Rất nhiều lễ hội là “của đồng bào” nhưng đồng bào lại rất ít tham gia, vì hầu hết là lễ hội để “diễn”, không còn mang ý nghĩa thiêng liêng của sự ra đời và việc thực hành tín ngưỡng truyền thống. Chúng tôi từng dự khán một số lễ hội cổ truyền do ngành văn hóa các cấp phục dựng với kịch bản sơ sài, sai sót về kiến thức dân tộc học, chắp nối, lẫn lộn văn hóa các sắc tộc. Tại các sự kiện này, nhiều già làng, trí thức và đồng bào dân tộc thiểu số có ý kiến phản biện nhưng hầu hết không được ghi nhận. Chẳng hạn lễ hội thác Pongour - lễ hội lớn hằng năm ở Tây Nguyên, vốn có từ xa xưa của đồng bào Cơ Ho bản địa, không hiểu tại sao nhiều năm gần đây, ngành văn hóa của địa phương lại trao vai trò chủ thể cho đồng bào Thái vốn là mới di cư từ phía bắc vào!?...

Nhân đây lại nhớ đầu năm 2018, lãnh đạo xã Pà Cò (huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình) có ý tưởng vận động cộng đồng người Mông bỏ Tết riêng để tổ chức Tết Nguyên đán chung với người Kinh. Lý do được xã này đưa ra là để giảm thiểu thời gian nghỉ ngơi và hạn chế tệ nạn. Xét từ góc độ hành chính, việc làm này ít nhiều có ý nghĩa tích cực, nhưng từ góc độ văn hóa thì đó là một ứng xử chưa thật sự khoa học. Chúng ta biết rằng, Tết cổ truyền của người Mông (và nhiều tộc người khác) là một di sản văn hóa có nguồn gốc lịch sử và giá trị riêng, là thời điểm thực hành văn hóa lớn nhất trong năm. Tết ấy là không gian thể hiện bản sắc tộc người với các lễ thức và văn hóa ẩm thực, trò chơi dân gian, giao lưu dân ca, dân nhạc, dân vũ,… độc đáo. Gộp Tết là dấu hiệu có thể làm phai nhạt, dẫn đến triệt tiêu nhiều giá trị văn hóa đặc sắc đã có. Những cách ứng xử chưa thấu đáo như vậy ít nhiều đã làm tổn thương đến một bộ phận đồng bào, họ cảm thấy bị phân biệt, đối xử và thiếu sự tôn trọng. Từ đó, sẽ dẫn đến tâm lý bị lấn át và mặc cảm, tự ti. Hãy đứng ở vị trí là chủ thể văn hóa, sẽ lý giải được tại sao những việc làm nêu trên lại khó nhận được sự đồng thuận.

(Còn nữa)