Từ mạch nguồn dân ca

Tháng Năm tôi về Làng Sen quê Bác. Có cảm giác làng Kim Liên quê Bác giống như một: Quê Chung. Một làng quê Việt Nam đặc trưng với những nét hội tụ, hồn quê Việt.

Từ những nếp nhà, lũy tre, đến ao sen, giếng Cốc, cả lò rèn nơi làm ra các nông cụ sản xuất. Tôi gặp ở đây bao giọng nói, miền quê, bao lứa tuổi từ nam ra bắc với muôn sắc áo quy tụ thành hình ảnh Việt Nam thu nhỏ. Tôi còn gặp ở đây các đoàn khách nước ngoài với muôn thứ tiếng, các mầu da khác nhau. Họ có chung một ngôn ngữ khi gặp gỡ ở đây bằng bặp bẹ câu chào tiếng Việt: “Việt Nam - Hồ Chí Minh”.

Bác sinh ra ở miền quê sông Lam, theo cha vào Huế, nơi có sông Hương, dạy học ở Phan Thiết, nơi có dòng sông Cái và xuống tàu tìm đường cứu nước từ sông Sài Gòn. Từ đó, Bác qua Pháp nơi gắn liền với dòng sông Seine, tìm ánh sáng luận cương Lenin ở nước Nga, nơi có sông Volga và cuối cùng về Hà Nội, nơi có dòng sông Hồng nổi tiếng. Còn có một con sông là dòng sông dân ca bắt đầu từ những lời ru của mẹ trên cánh võng đay thấm vào Người mạch nguồn văn hóa dân gian, dân tộc để sau này đến với văn hóa bác học, văn hóa nhân loại. Sau hàng chục năm bôn ba nước ngoài trở về Tổ quốc thân yêu, Bác vẫn không quên được những câu ví dặm, hát phường vải của quê hương: “À ơi! (chứ) ai biết nác sông Lam răng là trong là đục - Thì mới biết cuộc đời răng là nhục là vinh - (Chứ) Thuyền em lên thác xuống ghềnh - Nước non là nghĩa là tình ai ơi”. Bác Hồ đã sửa chữ “nước” thành chữ “nác” cho một nghệ nhân khi đoàn dân ca Nghệ Tĩnh vào Phủ Chủ tịch hát cho Người nghe. Nguồn mạch dân ca đã gieo vào Người tình yêu những tác phẩm văn chương nổi tiếng: “Truyện Kiều”, “Chinh phụ ngâm”. Bác thường hay lẩy Kiều và khi trên đường đi hoạt động bí mật bác thường ngâm “Chinh phụ ngâm” cho các đồng chí của mình nghe.

Về quê Bác, tôi bồi hồi đứng bên chiếc khung cửi dệt vải năm xưa của bà Hoàng Thị Loan thân mẫu của Người. Nghe bà con ở làng Sen kể, tôi mới biết ở Kim Liên có một nghề phụ rất phổ biến lúc nông nhàn là dệt vải, kéo sợi. Ở Kim Liên trước đây nhà nào cũng kéo vải. Nghề kéo vải thường là nghề của đàn bà, con gái. Kéo một mình thì buồn, nên các bà, các cô thường rủ nhau tụ họp tại một nhà nào đó trong thôn xóm không chỉ để tiện đèn dầu mà còn để động viên nhau, cổ vũ lẫn nhau và hát. Phường vải hội họp sinh ra từ đó và đây cũng chính là ngọn nguồn tục hát ví, hát phường vải. Nghe nói bà Hoàng Thị Loan là một trong những người xuất sắc một thời trong làng hát phường vải. Sau này khi theo ông Nguyễn Sinh Sắc đưa những đứa con vào Huế, ở đất kinh thành bà vẫn sắm khung cửi để dệt vải nuôi chồng dùi mài kinh sử thi cử, nuôi các con chăm ngoan học hành khôn lớn. Khi lên thăm mộ bà Hoàng Thị Loan trên núi Động Tranh, tôi thấy kiến trúc sư thật có lý và tinh tế sâu sắc khi thiết kế toàn bộ phần mộ được che bằng giàn hoa xây bê-tông kiểu dáng như một chiếc khung cửi cách điệu mà hai đường lên xuống với hàng trăm bậc thang lát đá giống như hai dải lụa đào, gợi nhớ cuộc đời canh cửi vất vả để nuôi chồng, nuôi con thuở sinh thời. Và tôi bồi hồi lặng đi khi biết giàn hoa được phủ bằng những gốc hoa giấy đưa từ khu mộ ông phó bảng Nguyễn Sinh Sắc từ Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp về trồng ở đây.

Bỗng ngân vọng trong tôi hai câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Bảo Định Giang đẹp như một áng ca dao thuần Việt: “Tháp Mười đẹp nhất bông sen - Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.