Sẵn sàng đấu nối “đại lộ” EVFTA

Quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Liên hiệp châu Âu (EU) đang chuẩn bị bước sang một trang sử mới khi thời khắc Quốc hội (QH) Việt Nam phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) đang đến rất gần. Các doanh nghiệp (DN) Việt Nam, đặc biệt ở các ngành nghề dệt may, da giày, xuất khẩu (XK) nông - lâm - thủy sản… cần ở tư thế sẵn sàng khi “đại lộ” giao thương với EU được đấu nối.

Các sản phẩm da giày có nhiều lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu vào thị trường EU. Ảnh: HẢI NAM
Các sản phẩm da giày có nhiều lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu vào thị trường EU. Ảnh: HẢI NAM

“Cú huých” phục hồi XK thời hậu dịch

EU là một trong những thị trường XK lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch (KN) XK sang thị trường này năm 2019 đạt 41,48 tỷ USD và nhập khẩu (NK) đạt 14,91 tỷ USD, EVFTA chắc chắn sẽ tạo “cú huých” lớn cho XK của Việt Nam sang thị trường rộng lớn EU, đặc biệt là các mặt hàng nông - lâm - thủy sản cũng như những mặt hàng Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh như dệt may, da giày… Đây là một trong những giải pháp quan trọng mà Chính phủ quyết tâm thúc đẩy nhằm tháo gỡ khó khăn khi mà nền kinh tế đang gánh chịu những tác động tiêu cực do dịch Covid-19.

Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhận định, giữa lúc dịch Covid-19 đang còn diễn biến phức tạp trên khắp thế giới, có thể nhu cầu thị trường bị giảm sút. Nhưng khi dịch bệnh đi qua thì nhu cầu có thể tăng lên nhiều, nhất là vào thời điểm EVFTA có hiệu lực thì sẽ là "cú huých" cho DN đẩy mạnh XK trở lại. Do vậy, các DN cần theo dõi sát tình hình dịch bệnh để có kế hoạch sản xuất và kinh doanh phù hợp; đồng thời có phương án chuyển đổi hình thức xúc tiến thương mại theo hướng tận dụng hình thức quảng bá trực tuyến, kết nối DN trực tuyến để duy trì và phát triển thị trường; bảo đảm có thể nhanh chóng khôi phục mọi hoạt động ngay sau khi dịch bệnh suy giảm và kết thúc.

Thương vụ Việt Nam tại EU, Bỉ, Luxembourg mới đây cũng đã đưa ra khuyến cáo, các DNXK của Việt Nam cần tính đến khả năng sản xuất và dự trữ hàng hóa để đến khi điều kiện thuận lợi có sẵn hàng hóa đáp ứng các đơn hàng từ EU. Thời gian tới, nếu dịch bệnh được kiểm soát và EVFTA đi vào thực thi thì sẽ giảm bớt yếu tố tác động tiêu cực đến tình hình XK hàng hóa của Việt Nam vào EU. Tới khi đó, nếu EU hết phong tỏa thì hàng dệt may - vốn là một trong những mặt hàng được hưởng lợi nhiều nhất từ EVFTA sẽ gặp thuận lợi. Đáng chú ý, sau cuộc khủng hoảng này, thị trường có thể sẽ có nhiều thay đổi, cả về quy mô các đơn hàng cũng như cách thức vận hành. Dự kiến là cách thức tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) của các DN EU sẽ có những điều chỉnh rất đáng kể, các nhà XK dệt may Việt Nam cần lưu ý cập nhật và điều chỉnh kịp thời. Bên cạnh đó, những ngành ít phụ thuộc vào chuỗi cung ứng, thí dụ như nông sản, sẽ được hưởng lợi ngay từ khi hiệp định có hiệu lực.

Điểm thuận lợi là cơ cấu kinh tế Việt Nam và EU không có sự cạnh tranh trực tiếp mà là cạnh tranh bổ sung. Những hàng hóa thế mạnh của Việt Nam không phải là thế mạnh của EU và ngược lại. Nhưng theo bà Nguyễn Thị Thu Trang, các DN Việt Nam phải chịu các chi phí nhất định để điều chỉnh sản xuất. Thí dụ, để đáp ứng quy tắc xuất xứ (QTXX) của hiệp định, DN phải thay đổi về nguồn cung nguyên liệu, từ nước ngoài sang nội địa. Mua từ nội địa thì đắt hơn, nhưng điều đó lại giúp các DN có lợi thế khi XK hàng sang EU.

Ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công thương) cho biết thêm, với mỗi hiệp định thương mại tự do (FTA), Bộ Công thương sẽ ban hành một Thông tư hướng dẫn riêng. Hiện nay, thông tư cho EVFTA đã được dự thảo, lấy ý kiến các đối tượng có liên quan để mọi người được biết sớm QTXX cụ thể như thế nào mới được đi vào thị trường EU.

Cơ hội đa dạng hóa thị trường

Mới đây, Vụ Chính sách thương mại đa biên đã chính thức thông báo, mọi công tác chuẩn bị đã sẵn sàng. Các DN cũng nên đặt mình trong tư thế sẵn sàng, bởi chỉ cần EVFTA được QH Việt Nam phê chuẩn (theo lịch dự kiến chương trình họp của QH, QH sẽ họp về việc phê chuẩn EVFTA vào ngày 20-5-2020 - ngày đầu tiên của kỳ họp thứ 9, QH khóa XIV) và hai bên hoàn tất thủ tục thông báo theo quy định của Hiệp định là sẽ chính thức có hiệu lực đối với cả EU và Việt Nam.

Nhóm chuyên gia của Trường đại học RMIT Việt Nam nhận định, đây là lúc Việt Nam cần đa dạng hóa các đối tác thương mại một cách mạnh mẽ hơn nhằm giảm sự phụ thuộc vào một hoặc hai thị trường trọng điểm cả về NK và XK. Và EVFTA là một yếu tố cần thiết trên hành trình đó. Nhất là khi chuỗi cung ứng toàn cầu đã và đang bị tác động dữ dội do sụt giảm hoạt động sản xuất và thương mại vì dịch Covid-19.

Đối với một nền kinh tế mở và tỷ trọng XNK chiếm tỷ lệ rất cao trong GDP như Việt Nam, các vấn đề liên quan những biến động có thể leo thang nhanh chóng, đặc biệt là khi hoạt động XNK có mối liên kết quan trọng nhưng thiếu bền vững với thị trường lớn như Trung Quốc. Hoặc như với thị trường Mỹ, theo TS Nguyễn Quang Trung (Trường đại học RMIT Việt Nam), việc xuất siêu cao và tăng liên tục sang thị trường này cũng có thể không bền vững, thậm chí rơi vào tình trạng khó khăn, đặc biệt khi các DN địa phương chưa làm chủ được các khâu chính trong chuỗi giá trị toàn cầu. Trong những năm gần đây, hoạt động ngoại thương của Việt Nam liên tục ghi nhận thâm hụt thương mại với Trung Quốc. Trong khi đó thặng dư thương mại với Mỹ ngày càng tăng. Xây dựng được cán cân thương mại cân bằng về mặt tổng thể sẽ giúp nền kinh tế ổn định hơn và tăng khả năng chống lại các cú sốc ngoại vi như dịch Covid-19.

Chưa rõ khi nào cuộc khủng hoảng Covid-19 hiện tại trên toàn cầu sẽ kết thúc và khi nào các tác động gián tiếp lên nền kinh tế sẽ được khắc phục. Vì vậy, giới chuyên gia nhấn mạnh yêu cầu cấp bách đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay là phải nhanh chóng nắm lấy cơ hội và hành động để đa dạng hóa thị trường, qua đó giảm thiểu các rủi ro phải đối mặt. Trong tương quan này, EVFTA có thể mang ý nghĩa sống còn, bên cạnh các thỏa thuận quốc tế khác như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).

Chuẩn bị tốt vì lợi ích dài hạn

Theo TS John Walsh (Trường đại học RMIT Việt Nam), EVFTA là thỏa thuận ổn định nhất đối với Việt Nam vì đưa ra các quy tắc chặt chẽ hơn, yêu cầu tất cả các đối tác phải tuân thủ. Điều đó có nghĩa sẽ có ít cơ hội hơn để các nước theo đuổi chính sách thu về lợi ích ngắn hạn, dù có chủ ý hay không. Các FTA thế hệ mới cũng sẽ mang lại cho Việt Nam cơ hội nâng cao vị thế trên bản đồ thương mại toàn cầu, vượt hẳn khỏi các lợi thế như chi phí lao động thấp hay nguồn lực nông nghiệp dồi dào, để hướng tới việc chuyển giao công nghệ và tận dụng kỹ năng của lực lượng lao động trẻ. Khả năng cạnh tranh của các sản phẩm thế mạnh của Việt Nam sẽ được “chắp thêm cánh” khi ngành năng lượng chuyển đổi để đáp ứng các tiêu chuẩn về lượng khí thải carbon thấp. Hơn nữa, khi nền kinh tế nói chung và người tiêu dùng Việt Nam nói riêng đã quen với hàng hóa NK từ EU trong các lĩnh vực mới, thì ngành bán lẻ và phân phối sẽ được tiếp sức để sẵn sàng đón nhận các sản phẩm khác trong những danh mục tương tự đến từ khắp nơi trên thế giới.

Ông Nguyễn Quang Trung thì cho rằng, Việt Nam là quốc gia ASEAN thứ hai ký FTA với EU. Song, sự quyết liệt như vậy cần đi kèm những hành động nhanh, quyết đoán và đáng tin cậy để giúp nền kinh tế phát triển hơn nữa. Sau bảy năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế quan đối với hơn 99% số dòng thuế, tương đương hơn 99% KNXK từ Việt Nam sang EU. Các DN Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi từ các sản phẩm ưu việt với giá thành rẻ từ EU và có thể sử dụng chúng trong các quy trình sản xuất của mình, từ đó cải thiện năng suất và lợi nhuận của hàng XK Việt Nam. Khi tính cạnh tranh tăng lên, Việt Nam sẽ có thêm cơ sở để thúc đẩy thương mại, thông qua việc hài hòa hóa các điều kiện pháp lý, QTXX, các quy định quản lý và hành chính hải quan, cũng như công nhận các tiêu chuẩn và quy định phù hợp của nhau. Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải đối mặt những thách thức đến từ yêu cầu của các thỏa thuận mới. Khu vực tư nhân phải chuẩn bị đáp ứng các thách thức nâng cấp chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị, nhằm bảo đảm tất cả các mắt xích trong chuỗi tuân thủ các thông lệ quốc tế tốt nhất.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, EVFTA dự kiến giúp KNXK của Việt Nam sang EU tăng thêm khoảng 42,7% vào năm 2025 và 44,37% vào năm 2030 so không có hiệp định. Xét về tổng KNXK của Việt Nam ra thế giới, dự kiến KNXK của Việt Nam sẽ tăng trung bình 5,21-8,17% cho giai đoạn 5 năm đầu thực hiện; tăng 11,12-15,27% cho giai đoạn 5 năm tiếp theo và 17,98-21,95% cho giai đoạn 5 năm sau đó.