Cần có khung pháp lý về FinTech

Các mô hình ứng dụng kinh doanh của công nghệ tài chính (FinTech) rất đa dạng và ngày càng trở nên phức tạp. Cùng với nâng cao hiệu quả hoạt động, các mô hình này mang lại không ít bất trắc và rủi ro. Thực tế này đòi hỏi khung pháp lý về FinTech cần sớm được hoàn thiện.

Người dân và các tổ chức tín dụng nên thận trọng khi tham gia dịch vụ công nghệ tài chính. Ảnh: NGUYỆT NGUYỄN
Người dân và các tổ chức tín dụng nên thận trọng khi tham gia dịch vụ công nghệ tài chính. Ảnh: NGUYỆT NGUYỄN

Việt Nam có nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp (DN) FinTech phát triển, đó là quy mô dân số 96,2 triệu người. Tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ tài chính - ngân hàng (NH) của người dân hiện nay là 45,8 triệu người, chiếm 63% dân số có tài khoản NH và tiếp cận với ít nhất một dịch vụ tài chính. Thực tế, số lượng DN FinTech tại Việt Nam đã tăng từ hơn 40 vào cuối năm 2016 lên khoảng 154 DN đang hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau như: thanh toán, gọi vốn cộng đồng, blockchain, quản lý tài chính cá nhân, quản lý POS/mPOS, quản lý dữ liệu, cho vay, so sánh thông tin…

Mới đây, trước những hoạt động biến tướng và vi phạm pháp luật về NH và tín dụng của một số DN kinh doanh cho vay ngang hàng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã khuyến cáo người dân và các tổ chức tín dụng nên thận trọng khi tham gia mô hình này.

Theo TS Trần Hùng Sơn, giảng viên Khoa Tài chính - Ngân hàng, Đại học Kinh tế - Luật TP Hồ Chí Minh, đến nay, sự tích hợp của công nghệ và tài chính trên thế giới đã trải qua ba giai đoạn. Thứ nhất, giai đoạn công nghệ thông tin tài chính, cụ thể là số hóa thông tin trong ngành tài chính. Thứ hai, giai đoạn tài chính internet, có sự kết hợp và kết nối của các sản phẩm khác nhau của các DN tài chính như quản lý tài sản, giao dịch, thanh toán và tài trợ trên nền tảng internet hoặc thiết bị di động. Thứ ba, giai đoạn tích hợp trên thực tế của tài chính và công nghệ. Ở giai đoạn này, FinTech tập trung vào việc sử dụng các công nghệ như dữ liệu lớn, điện toán đám mây, trí thông minh nhân tạo (AI) và blockchain để thay đổi cách thức thu thập thông tin tài chính truyền thống, mô hình định giá rủi ro, quy trình ra quyết định đầu tư và vai trò truyền thống của các trung gian tài chính.

Với sự phát triển nhanh ở giai đoạn thứ ba, FinTech đang làm thay đổi hệ sinh thái của ngành tài chính và đổi mới tài chính là xu hướng không thể đảo ngược. Tuy nhiên, các mô hình ứng dụng kinh doanh của FinTech rất đa dạng và ngày càng trở nên phức tạp. Cùng với nâng cao hiệu quả hoạt động, các mô hình này cũng mang lại nhiều bất trắc và rủi ro. Các vấn đề như rủi ro tài chính và các quy định không phù hợp dần xuất hiện. Việc sử dụng FinTech có thể không giúp giảm thiểu rủi ro vốn có trong hệ thống tài chính, mà thay vào đó, nó có thể khuyếch đại hoặc tạo ra các hình thức rủi ro tài chính mới.

Thực tế, các DN FinTech thường chạy đua để tung ra các sản phẩm sớm hơn so các DN cùng ngành nhằm đạt được hiệu ứng mạng. Chế độ thử và sai của việc đổi mới ở các FinTech dẫn đến việc các DN tung ra thị trường các sản phẩm chưa hoàn thiện. Hiệu ứng mạng có xu hướng biến những rủi ro nhỏ thành rủi ro lớn hơn, gây tổn thất tài chính lớn hơn và dẫn đến các rủi ro hoạt động và các vấn đề về tuân thủ. Do đó, các cơ quan quản lý và người tham gia cần có hiểu biết sâu sắc về bản chất của FinTech và xem xét kỹ lưỡng nhiều khía cạnh, phạm vi ứng dụng của FinTech. Ngoài ra, làm thế nào để đạt được sự cân bằng giữa đổi mới và phòng ngừa, kiểm soát rủi ro là vấn đề lớn nhất mà FinTech phải đối mặt.

Theo TS Trần Hùng Sơn, thực tế trên đòi hỏi Việt Nam phải nhanh chóng xây dựng khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động của các DN FinTech nhằm bảo vệ nhà đầu tư, tính toàn vẹn của thị trường và bảo đảm ổn định tài chính.

Về vấn đề này, ông Ngô Văn Ðức, Phó trưởng phòng Giám sát các hệ thống thanh toán, Vụ Thanh toán, NHNN thẳng thắn chia sẻ, đến nay, khuôn khổ pháp lý đối với FinTech hầu như chưa có, đặc biệt là quy chế quản lý, cũng chưa có luật hay nghị định quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý về FinTech. Lĩnh vực FinTech rất rộng nên nhiều mảng hoạt động chưa có quy định pháp lý, chẳng hạn tiền điện tử trên thuê bao di động (Mobile Money). Với hai hình thức, một là hoạt động như một ví điện tử (có tài khoản ở NH), hai là dùng tài khoản viễn thông để thanh toán (không qua hệ thống NH).

Thời gian qua, Bộ Thông tin và Truyền thông đã đề xuất và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận cho phép các nhà mạng thí điểm triển khai dịch vụ Mobile Money là dùng tài khoản viễn thông để thanh toán dịch vụ có giá trị nhỏ. Hai tập đoàn là Viettel và VNPT đã làm thủ tục xin cấp phép triển khai dịch vụ Mobile Money. Tuy vậy, hiện vẫn chưa có quy định pháp lý về Mobile Money.

Phó Vụ trưởng Thanh toán, NHNN Nghiêm Thanh Sơn cho biết, trung gian thanh toán có khuôn khổ pháp lý từ năm 2008, các DN cung cấp ví điện tử đầu tiên đã được cấp phép thí điểm và chính thức hoạt động. Tuy nhiên, quản lý FinTech không chỉ là quản lý các DN trung gian thanh toán, mà cả các DN công nghệ tài chính khác như: cung cấp công nghệ hạ tầng blockchains hay các giải pháp liên quan trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (bigdata), cũng như quản lý tài chính cá nhân. NHNN đã có kế hoạch nghiên cứu, áp dụng cách thức quản lý theo cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (regulatory sandbox) phù hợp thực tiễn, thông lệ quốc tế, tiến tới việc ban hành khuôn khổ pháp lý và quản lý chính thức. Tới đây, NHNN sẽ quy định cho phép được nạp tiền từ tiền mặt vào ví điện tử với một hạn mức nhất định, hạn mức này sẽ tương tự như viễn thông để tạo sự bình đẳng giữa các DN.