Bảo đảm an toàn nợ công

Với sự hỗ trợ của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) trong việc nâng cấp công cụ, phương thức quản lý rủi ro cho vay lại và bảo lãnh Chính phủ, công tác quản lý nợ công (QLNC) của Việt Nam đã được tăng cường, các chỉ tiêu an toàn nợ công (ATNC) được kiểm soát chặt chẽ, nằm trong giới hạn trần nợ công được Quốc hội (QH) phê chuẩn và giảm dần qua các năm trong giai đoạn 2016 - 2019, góp phần tăng dư địa chính sách tài khóa (CSTK), bảo đảm ATNC và an ninh tài chính (ANTC).

Chính phủ đã ưu tiên cấp bảo lãnh và cho vay lại với các lĩnh vực đang có chủ trương xã hội hóa như dạy nghề, đào tạo đại học, bệnh viện.
Chính phủ đã ưu tiên cấp bảo lãnh và cho vay lại với các lĩnh vực đang có chủ trương xã hội hóa như dạy nghề, đào tạo đại học, bệnh viện.

Theo đại diện Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại (QLN&TCĐN), Bộ Tài chính, chiều 19-11, cơ quan này đã phối hợp IMF tổ chức hội thảo trực tuyến về quản lý rủi ro cho vay lại và bảo lãnh chính phủ, với sự tham gia của bốn nhóm cơ quan đơn vị: chuyên gia IMF, các cơ quan quản lý Việt Nam, các ngân hàng (NH) đảm trách nhiệm vụ trung gian cho vay lại, các doanh nghiệp (DN) được Chính phủ cho vay lại và được cấp bảo lãnh. Hội thảo tập trung chia sẻ thông lệ tốt và kinh nghiệm của một số quốc gia đã xây dựng thành công các khuôn khổ quản lý và đánh giá rủi ro tín dụng trong những năm gần đây. Ngoài ra, hội thảo cũng thảo luận việc xác định các nội dung cần cải thiện trong khuôn khổ pháp lý hiện hành của Việt Nam và trong thực tiễn quản lý rủi ro tín dụng từ hoạt động cho vay lại trực tiếp của Chính phủ cũng như thông qua các NHTM và NH chính sách.

Đại diện Cục QLN&TCĐN cho biết, trong tháng 10-2020, Bộ Tài chính đã ban hành Bản tin nợ công số 10. Theo đó, các chỉ tiêu nợ năm 2019 đều bảo đảm trong giới hạn được QH quyết định: nợ công so tổng sản phẩm quốc nội tới năm 2019 là 55% GDP, nợ Chính phủ/GDP dưới 48%, nợ nước ngoài quốc gia dưới 47,1%, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/thu ngân sách dưới 17,4%. Với sự hỗ trợ của IMF trong việc nâng cấp công cụ, phương thức quản lý rủi ro cho vay lại và bảo lãnh Chính phủ, công tác QLNC của Việt Nam đã được tăng cường, các chỉ tiêu ATNC được kiểm soát chặt chẽ, nằm trong giới hạn trần nợ công được QH phê chuẩn và giảm dần qua các năm trong giai đoạn 2016 - 2019 (từ 61% năm 2015 còn 55% năm 2019), góp phần tăng dư địa CSTK, bảo đảm ATNC và ANTC.

Tính đến ngày 31-12-2019, trên cơ sở tổng hợp số liệu từ các cơ quan cho vay lại cho thấy, hơn 600 DA sử dụng nguồn vốn vay lại. Tổng số dư nợ cho vay lại (không bao gồm cho vay lại chính quyền địa phương) là 124.338.000 tỷ đồng, tương đương 5,4 tỷ USD. Chính phủ đã ưu tiên cấp bảo lãnh chính phủ và cho vay lại cho các lĩnh vực có khả năng hoàn vốn cho cơ sở hạ tầng, năng lượng, công nghiệp, phát triển hạ tầng đô thị, cấp nước... và các lĩnh vực đang có chủ trương xã hội hóa như dạy nghề, đào tạo đại học, bệnh viện...

Theo Cục trưởng QLN&TCĐN Trương Hùng Long, kể từ khi QH Việt Nam thông qua Luật QLNC năm 2017, đến nay hệ thống văn bản pháp luật về QLNC tại Việt Nam từ luật, nghị định và các thông tư hướng dẫn về cơ bản đã hoàn thành. Với việc Việt Nam kiên định theo đuổi mục tiêu củng cố tài khóa, quản lý chặt chẽ nghĩa vụ nợ dự phòng của ngân sách từ hoạt động cấp bảo lãnh Chính phủ và vay nước ngoài về cho vay lại, các chỉ tiêu ATNC được kiểm soát chặt chẽ, nằm trong giới hạn trần nợ được QH phê chuẩn và giảm dần qua các năm, góp phần bồi đắp dư địa CSTK để ứng phó hiệu quả các cú sốc vĩ mô như Việt Nam đối mặt trong năm 2020. Vấn đề đặt ra là công tác QLNC cần cải cách như thế nào để một mặt đáp ứng yêu cầu quản lý trong điều kiện phát triển của Việt Nam, mặt khác tiến dần đến thông lệ tốt của quốc tế.

Các chuyên gia đến từ IMF thì cho rằng, bảo lãnh và cho vay lại có những rủi ro tương tự như nhau, nhưng hình thức khác nhau nên cần được quản lý một cách phù hợp. IMF cho rằng, Bộ Tài chính có thể thu nhận nhiều lợi ích từ việc xây dựng năng lực như đánh giá các đề xuất bảo lãnh/cho vay lại; đánh giá và lượng hóa các rủi ro đi kèm tại thời điểm bảo lãnh và cập nhật trong suốt thời hạn bảo lãnh, giám sát thực hiện bảo lãnh/cho vay lại. Đồng thời, cải thiện theo dõi hồ sơ và công khai thông tin sẽ giúp tăng cường tính minh bạch và tạo thuận lợi hơn cho việc quản lý.

Trong giai đoạn tới, Việt Nam phải đối mặt với rủi ro vĩ mô gia tăng so thời kỳ trước, như rủi ro tăng trưởng kinh tế, mặt bằng lãi suất gia tăng, rủi ro nghĩa vụ nợ dự phòng cũng như chi phí gia tăng do dân số bị già hóa. Trong khi đó, các nhà tài trợ nước ngoài đã từng bước điều chỉnh chính sách hợp tác phát triển với Việt Nam theo hướng chuyển dần từ việc cung cấp ODA sang các khoản vay với điều kiện kém ưu đãi hơn, chi phí huy động vốn của một số khoản vay tăng gấp đôi so giai đoạn trước đây làm gia tăng nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ. Trong 5 năm tới, các khoản vay ODA sẽ giảm dần, tiến đến kết thúc, dẫn đến thiếu hụt nguồn vốn vay dài hạn, ưu đãi cho đầu tư. Chính phủ cần huy động các khoản vay mới với điều kiện kém ưu đãi hơn nhiều, sát với thị trường để bù đắp thiếu hụt cho cân đối ngân sách, đầu tư công trung hạn, cũng như cho vay lại đối với các địa phương, DN, đơn vị sự nghiệp công lập. Đối với vốn vay được Chính phủ bảo lãnh, trong thời gian tới Việt Nam tiếp tục thực hiện chủ trương hạn chế cấp bảo lãnh chính phủ cho các khoản vay mới.

Ông Trương Hùng Long đánh giá, khoản bảo lãnh Chính phủ có vai trò rất quan trọng giúp các tập đoàn, DN thực hiện các dự án thiết yếu, trọng điểm quốc gia có khả năng tiếp cận nguồn vốn thương mại lớn với quy mô lớn và chi phí vay ưu đãi hơn. Yêu cầu đặt ra là cần có cơ cấu nợ hợp lý, cân đối giữa chi phí và rủi ro, giữa nghĩa vụ nợ trực tiếp và nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ phù hợp yêu cầu phát triển cũng như năng lực QLNC của Việt Nam.