Dưới chân núi Lang Biang

Lần này đến Đà Lạt, tôi hào hứng nhất với chuyện đi “phượt” quanh chân núi Lang Biang, bằng xe máy. Thường người ta chỉ lên đỉnh núi chụp ảnh, nhưng ít ai mò xuống con suối P’Lah dưới chân núi, để bắt cá và nhảy xuống bơi lội. Lại có người nhắc, nhớ vào bản Cù Lần…

Lửa trại ở bản Cù Lần.
Lửa trại ở bản Cù Lần.

Trái tim Cù Lần

Tôi phải kể ngay với bạn những chuyện khi vào bản Cù Lần, thuộc xã Lát, huyện Lạc Dương, vì nhiều điều ngộ lắm. Đây là bản của người dân tộc Cơ Ho sinh sống từ xa xưa. Trước khi người Pháp đến Đà Lạt, tộc người Cơ Ho tập trung sinh sống ở khu vực hồ Xuân Hương. Xưa kia, vùng hồ là một thung lũng lớn, có một con suối chảy dài, từ trên dãy núi đông Trường Sơn dồn về. Sau đó, những dòng suối nhánh bị chặn lại, nước dồn cả về thung lũng Xuân Hương, tạo thành hồ lớn. Một khu vực rộng mênh mông trở thành nơi nghỉ dưỡng cho quan chức Pháp. Người dân Cơ Ho bị dồn về chân núi Lang Biang, cách xa hơn mười cây số. Bản Lát là nơi dừng chân đầu tiên của họ. Vì quá đông, họ chia nhau tản mát thành những bản nhỏ, bám quanh chân núi Lang Biang. Bản Cù Lần là một trong ba bản thuộc xã Lát ngày nay.

Thực ra, hàng trăm năm trước, người Cơ Ho đã ở rải rác dọc con suối P’Lah, chảy dài quanh chân núi Lang Biang. Đến nay, bản Cù Lần vẫn còn tục “cà răng, căng tai”, ở những người già. Đầu tiên, bản được đặt tên là Suối cạn, vì con suối P’Lah thường cạn kiệt vào mùa khô. Nhưng chính nơi đây, thổ nhưỡng đặc biệt sản sinh ra rừng cây Cù Lần, một dạng cây thuốc cầm máu chữa các vết thương nhanh khỏi. Dân trong bản thường chọn những gốc cây già, có nhiều tơ vàng sậm xuống chợ bán, rất đắt hàng. Nhưng điều thú vị hơn, trong khu rừng đầy cây quả tự nhiên đó, có loài thú nhỏ xinh xinh, ngộ nghĩnh giống như con gấu trúc nhỏ, lông xù vàng mượt. Đó chính là những con Cù Lần (còn gọi là Cu ly hoặc khỉ gió). Đặc biệt chúng thu hút mọi người, ở đôi mắt tròn xoe như viên bi mầu, hiền lành trong khuôn mặt gấu nhỏ thú bông. Cù Lần nhát tính, lại hay thẹn thùng, mỗi khi thấy người là khoanh thân mình lại, rồi lấy hai chân trước bưng lấy mắt. Người trong bản thường nhặt nó về chơi chán rồi thả cho về rừng. Có người đem đi chợ bán. Thấy tội lại đem về. Để chúng chơi với con trẻ và nhảy chuyền cành cho vui mắt.

Nhưng bản được đặt tên Cù Lần, thật sự lại ở một câu chuyện lãng mạn của người tộc Cơ Ho. Họ kể có một chàng trai Cơ Ho, tìm đến thung lũng đầy cỏ xanh và suối đẹp dưới chân núi Lang Biang, định xây một lâu đài tặng cho người mình yêu thương. Chàng trai lên núi vác đá về, ngày ngày cặm cụi xây cất ngôi nhà, nhưng lại bị mưa gió, bão tố xô đổ. Không chịu thoái lui, chàng trai lại tiếp tục dựng lâu đài hạnh phúc của mình, trên thảo nguyên mênh mông. Năm tháng trôi qua, mãi mãi chỉ là khát vọng, mơ mộng. Thấy vậy, người Cơ Ho coi chàng trai này là anh chàng cù lần, viển vông.

Nhưng rồi ngôi nhà xinh xinh được mọc lên như giấc mơ trên thảo nguyên bao la. Người người tìm đến. Đông vui, cùng với chàng trai dễ thương, và cô gái Cơ Ho xinh đẹp. Bản Cù Lần ra đời từ đó. Họ hát ca và yêu thương trái tim của chàng. “Trái tim Cù Lần”, chính là bài hát luôn được ngân vang, chào đón mọi người khi đến đây. Giai điệu chân tình, dễ thương như dân ca Cơ Ho bao đời nay, dưới chân núi Lang Biang. Và, hãy nghe chàng trai Cù Lần hát rằng: “Cho anh nói lời yêu như đứa nhà quê thật thà. Xin em hãy nhận đi. Xác thân mẹ nuôi khôn lớn. Xin em hãy nhận đi. Trái tim mộng mơ. Trái tim Cù Lần”.

Dưới chân núi Lang Biang ảnh 1

Đua ngựa ở bản Lát.

Làng ca sĩ

Khi quay về bản Lát, không khí khác hẳn cái xứ Cù Lần, luôn luôn sôi động không khí âm nhạc. Các chàng trai ở đây có tài đua ngựa không yên. Còn các cô gái thì có thể ca múa suốt đêm bên lửa trại. Đi khắp bản, đâu đâu cũng tập luyện cồng chiêng, như chuẩn bị vào hội. Trong một khu vườn cà-phê, chúng tôi gặp chị K’Réc, được nghe chuyện về những nghệ sĩ trong bản. Chị kể, ca sĩ Bonneur Trinh là người ở xóm gần đây. Một người con của bản Lát. Trước kia, Bonneur Trinh vẫn thường hát bên lửa trại cùng mọi người. Rồi hay tin, già làng Krazan Plin cử Bonneur Trinh đi dự thi, cách đây hơn mười năm. Bonneur Trinh đã đoạt giải nhất “Giọng hát hay truyền hình TP Hồ Chí Minh”. Bonneur Trinh biểu diễn bài “Lang Biang S’ning” do chính già làng Plin sáng tác. Một bài hát về tình yêu và quê hương của người dân tộc hiền hòa, bên chân núi Lang Biang.

Nay xã có tới hai mươi đội văn nghệ là nhờ già làng Krazan Plin. Chị kể, trước kia Plin là ca sĩ của Đoàn Văn công Lâm Đồng, đã từng đoạt ba HCV và năm HCB trong các hội thi. Sau đó Krazan Plin xin về quê nhà, làm phong trào và trở thành già làng. Ông đã bán trâu để mua nhạc cụ, thành lập đội văn nghệ đầu tiên, với cái tên “Những người bạn Lang Bian”. Đội nhạc này đã từng đi biểu diễn ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Biên Hòa, Cần Thơ… Không những thế, già làng Plin còn mở lớp đào tạo nhiều giọng ca trong xã. Một loạt gương mặt đã thành danh trong làng ca hát, đều là người của bản. Tiêu biểu là ca sĩ Krazan Sik, đã đoạt HCV trong một cuộc thi “Dân ca toàn quốc”. Anh còn là nhạc sĩ sáng tác sau khi được đào tạo trở về.

Hàng chục tiết mục biểu diễn ở xã Lát, đều do nhạc sĩ Krazan Sik viết theo phong cách dân ca Cơ Ho. Những giai điệu sôi động, vui tươi, trong những ngày hội. Theo chị K’Réc, ở xã Lát hiện có tới 300 nghệ sĩ biểu diễn. Đây là một con số lớn, so tỷ lệ 5.000 người Cơ Ho, rải rác quanh vùng. Nhiều đội văn nghệ dàn dựng chương trình khá chuyên nghiệp. Họ thường đi phục vụ khắp trong thành phố, hay những huyện chung quanh, khi có hợp đồng biểu diễn. Ban ngày, các nghệ sĩ lên nương rẫy, làm vườn, hay tham gia dịch vụ tại khu du lịch trên núi Lang Biang. Tối về, họ lại tập luyện ca múa, chơi cồng chiêng, sẵn sàng phục vụ du khách, bên lửa trại.

Đặc biệt, vào mùa xuân, bên cạnh cuộc đua ngựa hằng năm của những chàng trai Cơ Ho, các đội văn nghệ thường có mặt trên các sân khấu được dựng lên trong các bản, thôn. Xã Lát tưng bừng trong âm thanh. Các chàng kỵ mã, được tập hợp từ các bản lên, đều là thành viên của các đội văn nghệ. Chính vì thế, cuộc đua ngựa thường diễn ra trong nền âm nhạc sôi động. Khi vó ngựa bay trên thảo nguyên, cũng là lúc những bài ca Cơ Ho cũng rạo rực ngân vang. Đây là cuộc đua ngựa không yên nổi tiếng trong cả nước. Chỉ có những chàng trai Cơ Ho ở xã Lát mới có đủ dũng cảm như vậy. Khi gặp sự cố họ ngã như bay xuống đất. Nhưng ngay lập tức họ đuổi theo nhảy lên lưng ngựa đua tiếp. Đôi khi họ còn đứng bật lên lưng ngựa để đua. Chân trần. Không yên cương. Họ trông cậy vào trái tim lãng mạn, một trái tim “Cù Lần” bừng sôi, bay bổng trên cao nguyên đất đỏ.

Thăm thẳm mắt người

Chợt nhớ, khi vào ngôi nhà Rông ở bản Cù Lần và bản Lát, nơi hằng đêm sáng bừng lửa trại, tôi thường giật mình, đứng trước những bức tượng người mẹ bằng gỗ. Đây là những bức tượng do các nghệ nhân Cơ Ho điêu khắc. Họ đã truyền được những nét thần bí của dân tộc mình. Những vết khắc chạm gồ ghề, thô mộc, nhưng ẩn chứa tâm hồn. Người Cơ Ho đã phải chống chọi với thiên tai, lũ lụt, thác đổ mưa gào. Đi mỗi bước trong ngôi nhà tượng, tôi đều bắt gặp những đôi mắt Cơ Ho, thăm thẳm.

Đó là đôi mắt chan chứa mộng mơ của cô gái thợ dệt với những sợi thổ cẩm mầu tím. Còn kia là đôi mắt mẹ địu con, với sự ngời sáng, trong điệu ru con Cơ Ho. Nhưng có lẽ bức tượng chàng trai vạm vỡ, với ánh mắt cháy bỏng ước mơ xây những ngôi nhà hạnh phúc cho người mình yêu, đã gây ấn tượng bất ngờ. Ngôi tượng như đang hát những lời ca ngây ngất: “Anh không có giàu sang, không có nhà cao, cái phố. Xin đem cái rừng hoa, đem cái đồi xanh tặng em. Dâng em mái nhà trang khuất trong màn sương chiều về…”. Tôi đi như mơ trên thảo nguyên mướt xanh. Bất ngờ, đàn cò lửa vụt bay lên như những tia chớp, cháy lấp lánh trên không trung bao la.