Họ đã sống và yêu như thế

NDO - Họ đã vượt qua mưa bom bão đạn của chiến tranh, vượt qua mọi gian lao thử thách của cuộc đời để đến được bến bờ hạnh phúc. Trong cuộc sống thường nhật, tình yêu của họ đã đơm hoa, kết trái trong tự hào và hạnh phúc.
Bao năm qua đi, tình cảm vợ chồng ông Phú vẫn nồng thắm.
Bao năm qua đi, tình cảm vợ chồng ông Phú vẫn nồng thắm.

Tuổi trẻ hào hùng

Ðó là câu chuyện tình của hai ông bà Ngô Quang Phú và Nguyễn Thị Hoa ở xã Hải Thượng, Hải Lăng (Quảng Trị). Ông bà sinh ra ở hai miền nam - bắc khác nhau, thế nhưng điểm chung của họ là đã hiến dâng tuổi trẻ cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bà Nguyễn Thị Hoa, sinh năm 1948 trong một gia đình có truyền thống cách mạng tại khu Phường Sắn, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng. Tham gia cách mạng từ khi còn nhỏ, 15 tuổi bà đã vào đội du kích Hải Lăng, phá ấp chiến lược, chống địch càn. Từ năm 1963 đến 1966, bà làm Phó Bí thư Huyện đoàn, trợ lý Huyện đội trưởng, trực tiếp tổ chức tham gia hàng trăm trận đánh lớn nhỏ gây thiệt hại nặng nề cho địch. Năm 1965, bà được bầu là Chiến sĩ thi đua toàn miền nam. Năm 1966, trong một trận chiến đấu với lực lượng Tiểu đoàn 3 Việt Nam Cộng hòa tại khu vực xóm Rũ, thuộc xã Hải Vĩnh, bà bị địch bắt sau khi trúng một viên đạn vào chân.

Bà Hoa bị địch đưa về nhà thương thị xã, thay vì chữa trị, chúng gây mê rồi cưa luôn chân của bà để phòng sau này hồi phục bà không thể tiếp tục chiến đấu. Sau thời gian nằm ở nhà thương, bà bị đưa về giam ở xà-lim tỉnh để tra khảo. Bao nhiêu lần dùng vũ lực tra tấn lấy lời khai, chúng chỉ nhận được một câu trả lời duy nhất: "Tao là giải phóng quân!". Chúng đưa bà vào trại giam chợ Cồn - Ðà Nẵng để xét xử. Tại đây, bà bị  xử 15 năm tù vì tội "chống đối chính quyền". Bà bị đày ra Côn Ðảo, sau đó lại bị đưa về giam tại nhà lao Thủ Ðức. Ðược một thời gian chúng tiếp tục đưa bà về giam ở nhà lao Tam Hiệp cùng với các đồng chí Võ Thị Thắng, Trương Mỹ Hoa... Tại đây, dù bị thương tật và đánh đập dã man nhưng bà cùng các đồng chí của mình vẫn không hề nhụt chí, hăng hái đấu tranh mạnh mẽ đòi các quyền chính trị cho mình. Nhớ lại những năm tháng đó, bà nói: "Trong bao nhiêu năm bị tù đày, chưa một lần nào tôi run sợ".

Trước áp lực của dư luận trong nước và thế giới, ngụy quyền phải xuống nước thả một số tù chính trị bị thương tật nặng nề, bà Hoa là một trong số người được địch thả ra trong thời gian này. Năm 1972, bà về lại quê hương, cũng lúc đó, bộ đội ta tiến vào giải phóng Quảng Trị.

Về ông Ngô Quang Phú, tuổi trẻ của ông chỉ được kể lại một cách ngắn gọn nhưng không kém phần hào hùng, oanh liệt. Ông Phú sinh năm 1947 tại xã Gia Ðông, huyện Thuận Thành (Bắc Ninh). Tốt nghiệp THPT, ông lên đường vào nam chiến đấu, thuộc Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 102, Sư đoàn 308 (chiến đấu ở chiến trường Bình Trị Thiên). Ðơn vị của ông lúc ấy thật sự là một nỗi khiếp sợ đối với kẻ thù. Trong những năm 1966 đến năm 1972, ông cùng đơn vị tham gia nhiều trận đánh như Cam Lộ, Cồn Tiên, Dốc Miếu, Khe Sanh, đường 9 Nam Lào, tham gia giải phóng Ðông Hà, Thành Cổ - Quảng Trị...

Tình yêu từ mưa bom bão đạn

Trong chiến dịch giải phóng Quảng Trị năm 1972, sau khi giải phóng thị xã Ðông Hà, Ái Tử, Sư đoàn 308 vượt sông Thạch Hãn tiến vào đóng quân ở Hải Lăng. Chính trong thời gian này, hai ông bà đã gặp và yêu nhau. Bà Hoa sau khi từ trại giam trở về vẫn tiếp tục hoạt động, nhưng vì thương tật nên không tham gia chiến đấu trực tiếp mà chuyển sang công việc may vá áo quần cho bộ đội. Rồi lần ấy, anh chiến sĩ trẻ Ngô Quang Phú trong một trận chiến không may vai áo bị rách, anh đến nhờ cô Hoa vá lại. Kết quả là cô đã "tặng" cho anh một...miếng "cơm cháy"  trên vai áo (ông Phú dùng để gọi miếng vá kỷ niệm ấy). Ấn tượng bởi miếng vá vụng về cũng như vẻ đẹp của bà Hoa, ông Phú bắt đầu thương thầm, trộm nhớ. Ông bí mật viết một bức thư rồi nhân lúc cả hai núp xuống hầm tránh bom đã dúi vào túi áo cô gái. Duyên số bắt đầu từ đây, bà đọc xong bức thư và bắt đầu thích ông.

Vậy là tình yêu của họ bắt đầu từ những điều bình dị. Nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh, ông Phú tiếp tục lên đường vào nam chiến đấu và không quên hẹn ngày trở về. Bà Hoa vẫn ở vậy đợi chờ mặc cho sau này nhiều đồng đội báo rằng ông Phú đã hy sinh.

Sau ngày nước nhà thống nhất, bà được cử ra bắc học tại Trường Bổ túc Văn hóa Trung ương (Hưng Yên). Một buổi sáng ngày 2-6-1976, sau thời gian vất vả dò hỏi địa chỉ, ông Phú tìm đến trường tìm gặp người yêu. Ngay khi gặp ông, quá đỗi bất ngờ và xúc động, bà nhìn ông sững sờ rồi lắp bắp: "Anh... Rứa anh... còn sống thật à?!". Bà không tin vào mắt mình, bởi lâu nay dù vẫn lặng thầm chờ đợi ông nhưng trong thâm tâm cũng có lúc bà nghĩ rằng, có lẽ ông Phú đã hy sinh. Nghe bà hỏi vậy, ông cười hiền lành trả lời: "Ừ, còn sống chớ! Em còn đợi anh như vậy thì làm sao anh hy sinh được!". Vậy là kể từ hôm đó, tuần nào ông cũng đạp xe vượt cả mấy trăm cây số từ nơi đóng quân về thăm người yêu. Ðến năm 1977, hai ông bà tổ chức lễ cưới. Thế nhưng, để nên vợ nên chồng, họ đã phải trải qua rất nhiều thử thách bởi bà Hoa đã bị cụt chân.

Trước sự quyết tâm đến cùng của con trai, người bố ông Phú đành chấp nhận và không quên dặn rằng: "Về sau hãy tự lo lấy cho gia đình của anh đi!". Thế nhưng, đâu chỉ gia đình ông ngăn cản, mà chính ngay phía bên gia đình anh trai bà Hoa cũng không đồng ý, bởi họ sợ rằng rồi một ngày nào đó vì em gái họ tàn phế mà ông sẽ bỏ rơi bà. Ðể thuyết phục được anh trai bà Hoa, ông Phú đã phải dùng đến lời thề để chứng minh cho tình yêu sắt son mãnh liệt của mình. "Dù Hoa bị thương tật, tôi vẫn sẽ yêu Hoa cho đến đầu bạc răng long, và mãi mãi như vậy!"...

Tóc ông Phú giờ đã bạc trắng, thế nhưng lời thề 35 năm về trước ông vẫn giữ nguyên vẹn. Bao nhiêu năm qua đi, ông đã luôn bên cạnh, sẻ chia mọi niềm vui nỗi buồn, mọi vất vả khó khăn cùng bà. Trải qua thử thách của cuộc đời, dường như tình yêu ông dành cho bà vẫn không điều gì lay chuyển. Ba đứa con của ông bà giờ đây tất cả đã khôn lớn và thành đạt, đó chính là niềm vui lớn nhất của hai vợ chồng, hai người đồng đội từng nhen lửa yêu thương từ trong những năm tháng bão đạn mưa bom.